Bản án 149/2021/HS-ST ngày 29/09/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 149/2021/HS-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 81/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 102/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 6 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Dương Hoàng T, sinh năm 1985 tại tỉnh Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Khu phố P, phường H, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn R (đã chết) và bà Trần Thị Ngọc D, sinh năm 1955; có vợ là Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1986 và 01 con sinh năm 2020.

Tiền án: Ngày 03/3/2020, bị Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát xử phạt 45.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”, đã chấp hành xong hình phạt và án phí ngày 11/3/2021.

Tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/01/2021 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Tuấn H, sinh năm 1983 tại tỉnh Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Khu phố P, phường H, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1952 và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1952; có vợ là Lại Thị Hồng P, sinh năm 1984 và 02 con sinh năm 2011, 2015; tiền án; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 14/01/2021 đến ngày 18/01/2021 được hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và được tại ngoại cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

3. Hồ Trọng C, sinh năm 1973 tại tỉnh Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Khu phố A, phường H, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn N (đã chết) và bà Nguyễn Thị N (đã chết); có vợ là Phạm Thị Minh H, sinh năm 1975 và 02 con sinh năm 1997, 2008; tiền án; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 14/01/2021 đến ngày 18/01/2021 được hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và được tại ngoại cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

4. Nguyễn Văn L, sinh năm 1970 tại tỉnh Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Khu phố P, phường H, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Phụ giúp gia đình; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Võ Thị L (đã chết); có vợ là Phạm Thị Ngọc B, sinh năm 1969 và 02 con sinh năm 1989, 1992; tiền án; tiền sự: Không; bị cáo được tại ngoại cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Trương Thị D (tên gọi khác: Trương Thị Tuyết D), sinh năm 1954.

Hộ khẩu thường trú: Ấp P, xã P, huyện P, tỉnh An Giang.

Tạm trú: Đường D5, khu phố 1, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương – có yêu cầu xét xử vắng mặt.

Người làm chứng:

1. Ông Trương Văn D, vắng mặt.

2. Ông Phạm Văn H, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 30 phút, ngày 13/01/2021, Công an phường H tổ chức kiểm tra hành chính tại quán cà phê C thuộc khu phố A, phường H, thị xã B, tỉnh Bình Dương do ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1949; hộ khẩu thường trú: Khu phố P, phường H, thị xã B, tỉnh Bình Dương làm chủ, phát hiện 04 đối tượng bao gồm: Dương Hoàng T, Nguyễn Văn L, Trương Văn D, Phạm Văn H đang tụ tập đánh bài binh xập xám thắng thua bằng tiền. Công an phường H đã thu giữ tang vật tại hiện trường gồm:

- 01 (một) bộ bài tây 52 lá.

- Số tiền mặt 3.952.000 đồng trên chiếu bạc.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu xám gắn sim số 0919.878.489 của Nguyễn Văn L.

- Số tiền 20.550.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Samsung J6, màu đỏ, gắn sim số 0949.121.283 của Dương Hoàng T.

1. Nhóm đánh bạc thứ nhất (hình thức binh xập xám) nhƣ sau:

Quá trình điều tra, Dương Hoàng T, Nguyễn Văn L, Trương Văn D, Phạm Văn H khai nhận như sau: Khoảng 05 giờ 00 phút, ngày 13/01/2021, T, L, D cùng nhau đến quán cà phê của ông C uống nước. Trong lúc nói chuyện, L rủ T, D, H chơi đánh bài binh xập xám thắng thua bằng tiền thì tất cả đồng ý. Bốn người chơi thay nhau làm cái một lần, số tiền đặt từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng.

Số tiền mang theo đánh bạc thắng thua của từng người như sau:

- Dương Hoàng T mang theo số tiền 1.600.000 đồng sử dụng hết vào mục đích đánh bạc, khi bị bắt thua hết 1.100.000 đồng, còn lại 500.000 đồng bị thu giữ trong tiền tang. Tổng số tiền T dùng vào mục đích đánh bạc là 1.600.000 đồng.

- Trương Văn D mang theo số tiền 58.700.000 đồng, D lấy ra 1.000.000 đồng sử dụng vào mục đích đánh bạc, còn 57.700.000 đồng không sử dụng vào mục đích đánh bạc, khi bị bắt D thắng 1.300.000 đồng bị thu giữ trong tiền tang.

Tổng số tiền D dùng vào mục đích đánh bạc là 2.300.000 đồng.

- Phạm Văn H mang theo số tiền 600.000 đồng sử dụng hết vào mục đích đánh bạc, khi bị bắt H thua hết 200.000 đồng, còn 400.000 đồng để trên chiếu bạc bị Công an thu giữ trong tiền tang. Tổng số tiền H dùng vào mục đích đánh bạc là 600.000 đồng.

- Nguyễn Văn L mang theo số tiền 752.000 đồng sử dụng hết vào mục đích đánh bạc, khi bị bắt không thắng không thua, số tiền 752.000 đồng bị thu giữ trong tiền tang. Tổng số tiền L dùng vào mục đích đánh bạc là 752.000 đồng.

Tổng số tiền đánh bạc T, L, D, H dùng để đánh bạc là 3.952.000 đồng.

2. Nhóm đánh bạc dƣới hình thức mua bán số đề nhằm thu lợi bất chính giữa Dƣơng Hoàng T, Hồ Trọng C, Nguyễn Tuấn H, Nguyễn Văn L, Trƣơng Thị D:

Quá trình kiểm tra điện thoại di động hiệu Samsung J6, có số thuê bao 0949.121.283 của Dương Hoàng T xác định: Ngoài đánh bạc dưới hình thức binh xập xám thắng thua bằng tiền thì Dương Hoàng T còn đánh bạc dưới hình thức mua bán số đề nhằm thu lợi bất chính với Hồ Trọng C, Nguyễn Tuấn H, Nguyễn Văn L, Trương Thị D.

- Ngày 12/01/2021, C sử dụng số điện thoại 0919.105.906 của C nhắn tin đến số điện thoại 0949.121.283 của T để mua bán số đề gồm:

+ Đài Vũng Tàu gồm: 52 bao lô 200.000đ; 13 bao lô 100.000đ và 51 bao lô 100.000đ. Tổng số tiền C mua số đề đài Vũng Tàu là 7.200.000 đồng. Căn cứ kết quả xổ số đài Vũng Tàu ngày 12/01/2021 thì những số đề C mua không trúng. Tổng số tiền C và T đánh bạc với nhau dưới hình thức ghi số đề theo đài xổ số kiến thiết Vũng Tàu ngày 12/01/2021 là 7.200.000 đồng.

- Ngày 12/01/2021, Nguyễn Tuấn H dùng số điện thoại 0946.262.339 của H nhắn tin đến số điện thoại 0949.121.293 của T để mua bán số đề gồm:

+ Đài Bạc Liêu gồm: Số 93 bao lô 165.000đ; 693 bao lô 10.000đ, đầu đuôi 20.000đ; 11, 68, 52 bao lô 8.000đ; 11 đầu 10.000đ đuôi 10.000đ; 48, 84, 81, 93, 72 bao lô 3.000đ; 92, 13 bao lô 4.000đ; 18, 81, 38, 83, 39, 93 bao lô 2.000đ; 411, 774 bao lô 1.000đ; 18, 44, 41, 19, 74 bao lô 2.000đ; 25, 52, 38, 65, 85 bao lô 4.000đ; 352, 752, 238 bao lô 2.000đ. Căn cứ kết quả xổ số đài Bạc Liêu ngày 12/01/2021 thì H trúng các số 18, 38, 18, 41,19, 38 (Tỷ lệ thắng thua là 01 đồng thắng 70 đồng) được số tiền 980.000đ . Tổng số tiền H và T đánh bạc với nhau dưới hình thức ghi số đề theo đài xổ số kiến thiết Bạc Liêu là 5.916.000 đồng.

+ Đài Vũng Tàu gồm: Số 96 bao lô 25.000đ, 996 bao lô 5.000đ, 996 đầu 25.000đ đuôi 25.000đ; 39 bao lô 8.000đ, 11 bao lô 18.000đ; 10, 16, 48 bao lô 4.000đ, 911 bao lô 3.000đ; 53 đầu 25.000đ đuôi 25.000đ; 39 đầu 20.000đ đuôi 5.000đ; 39 đá 07 là 5.000đ, 51 đá 43 là 5.000đ; 10 đá 36 đá 48 là 3.000đ, 96 đá 85 là 2.000đ ; 11 bao lô 8.000đ; 11, 68, 52 bao lô 8.000đ; 11 đầu 10.000đ đuôi 10.000đ; 48, 84, 81, 93, 72 bao lô 3.000đ; 92, 13 bao lô 4.000đ; 18, 81, 38, 83, 39, 93 bao lô 2.000đ; 18, 44, 41, 19, 74 bao lô 2.000đ; 411, 774 bao lô 1.000đ;

25, 52, 38, 65, 85 bao lô 4.000đ; 352, 752, 238 bao lô 2.000đ. Căn cứ vào kết quả xổ số đài Vũng Tàu ngày 12/01/2021 thì H trúng các số 68, 81, 83 (Tỷ lệ thắng thua là 01 đồng thắng 70 đồng) được số tiền 840.000đ. Tổng số tiền H và T đánh bạc với nhau dưới hình thức ghi số đề theo đài xổ số kiến thiết Vũng Tàu là 4.950.000 đồng.

+ Đài Bến Tre gồm: Số 11, 68, 52 bao lô 8.000đ; 11 đầu 10.000đ đuôi 10.000đ; 48, 84, 81, 93, 72 bao lô 3.000đ; 92, 13 bao lô 4.000đ; 18, 81, 38, 83, 39, 93 bao lô 2.000đ; 411, 774 bao lô 1.000đ; 18, 44, 41, 19, 74 bao lô 2.000đ;

25, 52, 38, 65, 85 bao lô 4.000đ; 352, 752, 238 bao lô 2.000đ. Căn cứ kết quả xổ số đài Bến Tre ngày 12/01/2021 thì H trúng các số 85, 52, 19, 52, 72 (Tỷ lệ thắng thua là 01 đồng thắng 70 đồng) được số tiền 1.610.000đ. Tổng số tiền H và T đánh bạc với nhau dưới hình thức ghi số đề theo đài xổ số kiến thiết đài Bến Tre là 3.356.000 đồng.

+ Đài miền Bắc gồm: Số 94 bao lô 95.000đ, 18, 81 bao lô 4.000đ, 568, 286, 739 bao lô 1.000đ; 38, 83, 25, 52 bao lô 5.000đ; 38 đá 83 là 2.000đ, 25 đá 52 là 3.000đ, 19 đá 99 là 1.000đ; 07,48, 39, 57 bao lô 10.000đ, 38,78, 938 bao lô 3.000đ, 048 đầu 25.000đ đuôi 25.000đ, 52 đá 68 đá 11 là 1.000đ, 86 đá 68 là 1.000đ 11 đá 51 là 5.000đ, 07 đá 71 là 2.000đ, 38 đá 57 đá 78 là 1.000đ. Căn cứ kết quả xổ số đài miền Bắc ngày 12/01/2021 thì H trúng các số 11-51, 48 (Tỷ lệ thắng thua là 01 đồng thắng 70 đồng) được số tiền 3.700.000đ. Tổng số tiền H và T đánh bạc với nhau dưới hình thức ghi số đề theo đài xổ số kiến thiết đài miền Bắc là 9.419.000 đồng.

- Ngày 12/01/2021, Nguyễn Văn L dùng số điện thoại 0979.878.489 của L nhắn tin đến số điện thoại 0949.121.283 của T để mua bán số đề gồm:

+ Đài miền Bắc gồm: Số 68, 86, 57 bao lô 30.000đ và đá 5.000đ; 60, 60, 64 bao lô 20.000đ và đá 5.000đ. Căn cứ kết quả xổ số đài miền Bắc ngày 12/01/2021 thì những số đề L mua không trúng. Tổng số tiền L và T đánh bạc với nhau dưới hình thức ghi số đề theo đài xổ số kiến thiết miền Bắc là 5.400.000 đồng.

- Ngày 12/01/2021, Trương Thị D dùng số điện thoại 0372.364.473 của D gọi điện thoại đến số điện thoại 0949.121.283 của T để mua bán số đề gồm:

+ Đài Vũng Tàu gồm: Số 24, 47, 79, 68, 87, 10, 57, 35, 51, 683, 638 bao lô 5.000đ; 38, 79, 09, 83 đầu 20.000đ, 24 đầu 40.000đ, 999 bao lô 5.000đ. Căn cứ kết quả xổ số đài Vũng Tàu ngày 12/01/2021 thì D trúng số 79, 68, 57 được số tiền 1.050.000đ. Tổng số tiền D và T đánh bạc với nhau dưới hình thức ghi số đề theo đài xổ số kiến thiết Vũng Tàu là 3.255.000 đồng.

+ Đài Bến Tre gồm: Số 38, 79, 09, 83 đầu 20.000đ, 24 đầu 40.000đ, 999 bao lô 5.000đ. Căn cứ kết quả xổ số đài Bến Tre ngày 12/01/2021 thì những số đề D mua không trúng. Tổng số tiền D và T đánh bạc với nhau dưới hình thức ghi số đề theo đài xổ số kiến thiết Bến Tre là 205.000 đồng.

+ Đài Bạc Liêu gồm: Số 38, 79, 09, 83 đầu 20.000đ, 24 đầu 40.000đ, 999 bao lô 5.000đ. Căn cứ kết quả xổ số đài Bạc Liêu ngày 12/01/2021 thì những số đề D mua không trúng. Tổng số tiền D và T đánh bạc với nhau dưới hình thức ghi số đề theo đài xổ số kiến thiết Bạc Liêu là 205.000 đồng.

+ Đài miền Bắc gồm: Số 58, 68 bao lô 5.000đ, 58 đá 68 là 1.000đ; 35, 53 bao lô 5.000đ, 35 đá 53 là 1.000đ; 36, 52 bao lô 5.000đ, 36 đá 52 là 1.000đ; 51, 19 bao lô 5.000đ, 51 đá 19 là 1.000đ; 39, 79 bao lô 5.000đ, 39 đá 79 là 1.000đ. Căn cứ kết quả xổ số đài miền Bắc ngày 12/01/2021 thì D trúng các số 53, 36, 51, 79 được số tiền 2.100.000đ. Tổng số tiền D và T đánh bạc với nhau dưới hình thức ghi số đề theo đài xổ số kiến thiết miền Bắc là 3.909.000 đồng.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 điện thoại di động hiệu Vivo 1610 màu trắng, gắn sim số 0946.262.339 của Nguyễn Tuấn H và số tiền 8.741.000 đồng;

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J4 màu vàng đồng, gắn sim số 0919.105.906 của Hồ Trọng C và số tiền 2.800.000 đồng - 01 điện thoại Nokia màu đen, gắn sim số 0372.364.473 của Trương Thị D và số tiền 2.430.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra Dương Hoàng T, Nguyễn Văn L, Nguyễn Tuấn H, Hồ Trọng C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai và biên bản hỏi cung phù hợp với chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Trương Văn D, Phạm Văn H, Nguyễn Văn L đánh bài binh xập xám thắng thua bằng tiền với tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 3.952.000 đồng; Trương Thị D có hành vi mua số đề tại mỗi đài Vũng Tàu, Bến Tre, Bạc Liêu, Miền Bắc chưa đủ số tiền là 5.000.000 đồng; D, H, L, D không có tiền án, tiền sự nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội đánh bạc theo quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngày 31/3/2021, Công an thị xã Bến Cát đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 54,55,56/QĐ-XPHC, xử phạt 1.500.000 đồng đối với Trương Văn D, Phạm Văn H, Nguyễn Văn L về hành vi đánh bạc. Ngày 14/4/2016, Công an thị xã Bến Cát đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 66/QĐ-XPHC, xử phạt 350.000 đồng đối với Trương Thị D về hành vi đánh bạc.

Tại bản Cáo trạng số 86/CT-VKSBC ngày 14 tháng 5 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo Dương Hoàng T, Nguyễn Tuấn H, Hồ Trọng C và Nguyễn Văn L về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Xử phạt bị cáo Dương Hoàng T từ 01 năm 02 tháng đến 01 năm 04 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn H từ 10 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Tuấn H số tiền từ 15 triệu đến 20 triệu đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Xử phạt bị cáo Hồ Trọng C từ 25 đến 30 triệu đồng.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 20 đến 25 triệu đồng. Về xử lý vật chứng:

Đề nghị:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ bài tây; các sim điện thoại số 0919.105.906, 0979.878.489, 0946.262.339, 0949.121.283, 0372.364.473.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:

+ Số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 3.952.000 đồng.

+ Số tiền 20.550.000 đồng dùng để đánh bạc của Dương Hoàng T.

+ Số tiền 8.741.000 đồng dùng để đánh bạc của Nguyễn Tuấn H.

+ Số tiền 2.800.000 đồng dùng để đánh bạc của Hồ Trọng C.

+ Số tiền 2.430.000 đồng dùng để đánh bạc của Trương Thị D.

+ 01 (một) Điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (Model TA1034).

+ 01 (một) Điện thoại di động hiệu Iphone 6 (số IMEI 354430060187037 máy trầy xước).

+ 01 (một) Điện thoại di động hiệu Samsung (máy trầy xước, cong vênh, không kiểm tra được Model và số IMEI).

+ 01 (một) Điện thoại di động hiệu Vivo (máy bị trầy xước, cong vênh, không kiểm tra được Model và số IMEI).

+ 01 (một) Điện thoại di động hiêu Samsung (máy bị trầy xước, cong vênh, không kiểm tra được Model và số IMEI).

- Truy thu số tiền dùng để đánh bạc của bị cáo Dương Hoàng T là 23.265.000 đồng.

- Truy thu số tiền dùng để đánh bạc của bị cáo Nguyễn Tuấn H là 14.900.000 đồng.

- Truy thu số tiền dùng để đánh bạc của bị cáo Hồ Trọng C là 4.400.000 đồng. đồng.

- Truy thu số tiền dùng để đánh bạc của bị cáo Nguyễn Văn L 5.400.000 - Truy thu số tiền dùng để đánh bạc của Trương Thị D là 5.144.000 đồng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố và bản luận tội của Viện Kiểm sát.

Tại phiên tòa các bị cáo có ý kiến: Thống nhất với cáo trạng truy tố, thừa nhận có hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức mua bán số đề và binh xập xám.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Đã nhận thức được hành vi đánh bạc là sai trái, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

* Ngày 13/01/2021, Dương Hoàng T, Nguyễn Văn L, Trương Văn D, Phạm Văn H có hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh bài binh xập xám thắng thua bằng tiền. Tổng số tiền T, L, H, D dùng để đánh bạc là 3.952.000 đồng.

Số tiền mà T, L, H, D dùng để đánh bạc, cụ thể như sau:

- Dương Hoàng T là 1.600.000 đồng.

- Trương Văn D là 2.300.000 đồng.

- Phạm Văn H là 600.000 đồng.

- Nguyễn Văn L là 752.000 đồng.

Bị cáo Thái đã từng bị Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát xử phạt 45.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” bằng Bản án số 36/2020/HS-ST ngày 03/3/2020, chưa được xóa án tích. Ngày 13/01/2021, bị cáo tiếp tục có hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh bài binh xập xám thắng thua bằng tiền nên hành vi đánh bạc của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Trương Văn D, Phạm Văn H, Nguyễn Văn L chưa có tiền án, tiền sự nên hành vi đánh bạc ngày 13/01/2021 của D, H, L chưa đủ yếu tố cấu thành tội “đánh bạc” theo Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

* Ngày 12/01/2021, Dương Hoàng T có hành vi mua bán số đề với Nguyễn Tuấn H, Hồ Trọng C, Nguyễn Văn L và Trương Thị D, cụ thể như sau:

- Tại đài xổ số Vũng Tàu, T đánh bạc với số tiền là 15.405.000 đồng, trong đó: C đánh bạc 7.200.000 đồng; H đánh bạc 4.950.000 đồng và D đánh bạc 3.255.000 đồng.

- Tại đài xổ số Bạc Liêu, T đánh bạc với số tiền là 6.121.000 đồng, trong đó: H đánh bạc 5.916.000 đồng; D đánh bạc 205.000 đồng.

- Tại đài xổ số Bến Tre, T đánh bạc với số tiền là 3.561.000 đồng, trong đó: H đánh bạc 3.356.000 đồng; D đánh bạc 205.000 đồng.

- Tại đài xổ số miền Bắc, T đánh bạc với số tiền là 18.728.000 đồng, trong đó: H đánh bạc với số tiền 9.419.000 đồng; L đánh bạc với số tiền 5.400.000 đồng; D đánh bạc với số tiền 3.909.000 đồng.

Số tiền dùng để đánh bạc của Nguyễn Tuấn H tại từng đài Vũng Tàu, Bến Tre là dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và theo tinh thần tại điểm a khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Do đó, đối với hành vi mua bán số đề: Tổng số tiền dùng để đánh bạc của Dương Hoàng T là 43.815.000 đồng; của Nguyễn Tuấn H là 15.335.000 đồng, của Hồ Trọng C là 7.200.000 đồng, của Nguyễn Văn L 5.400.000 đồng.

Hành vi của các bị cáo Dương Hoàng T, Nguyễn Tuấn H, Hồ Trọng C, Nguyễn Văn L đã phạm vào tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Do đó, Cáo trạng số 86/CT -VKSBC ngày 14 tháng 5 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Các bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Vụ án với tính chất đồng phạm giản đơn. Bị cáo T là người bán số đề, trực tiếp nhận số đề thông qua tin nhắn điện thoại từ các bị cáo H, C, L. Số tiền bị cáo T dùng để đánh bạc là 43.815.000 đồng, nhiều hơn các bị cáo còn lại. Bị cáo T còn tích cực tham gia đánh binh xập xám với số tiền dùng để đánh bạc là 1.600.000 đồng. Do đó, mức hình phạt của bị cáo T sẽ cao hơn các bị cáo còn lại. Bị cáo H tham gia đánh bạc tích cực, số tiền bị cáo H dùng để đánh bạc là 15.335.000 đồng chỉ ít hơn bị cáo T. Do đó, mức hình phạt của bị cáo H sẽ cao hơn bị cáo C và L. Số tiền bị cáo L dùng để đánh bạc (đánh đề) là 5.400.000 đồng. Ngoài hành vi mua số đề, bị cáo L còn có hành vi đánh binh xập xám vào ngày 13/01/2021 (đã bị xử phạt hành chính), do đó, mức hình phạt của của bị cáo L sẽ cao hơn bị cáo C. Bị cáo C tích cực tham gia đánh bạc nên cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi của bị cáo C.

Hành vi của các bị cáo trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng. Đánh bạc là tệ nạn xã hội thường dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng khác cho xã hội. Về nhận thức, các bị cáo hoàn toàn biết hành vi đánh bạc là trái pháp luật nhưng các bị cáo đã cố tình thực hiện. Do vậy, cần có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo, đồng thời góp phần ngăn chặn tệ nạn cờ bạc đang ngày càng gia tăng tại địa phương, giữ gìn trật tự công cộng và phòng ngừa tội phạm chung.

Bị cáo H có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử sẽ áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người sống có ý thức, tuân thủ các quy định của pháp luật, sống có trách nhiệm với gia đình và có ích cho xã hội. Đồng thời, Hội đồng xét xử áp dụng thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo H theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Về biện pháp tư pháp khấu trừ thu nhập, xét thấy đã áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nên Hội đồng xét xử không cần thiết khấu trừ thu nhập đối với bị cáo H.

[4 Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1 Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Dương Hoàng T có hai lần đánh bạc gồm: Đánh binh xập xám ngày 13/01/2021 và mua bán số đề của 04 đài Vũng Tàu, Bến Tre, Bạc Liêu, miền Bắc vào ngày 12/01/2021; bị cáo H có hành vi mua số đề tại các đài miền Bắc, Bạc Liêu với số tiền từ 5.000.000 đồng trở lên nên bị cáo T và H phải chịu tình tiết tăng nặng là “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Ngày 03/3/2020, bị cáo T bị Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát xử phạt 45.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”, bị cáo chưa được xóa án tích lại có có hành vi mua bán số đề vào ngày 12/01/2021 nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiêm hình sự là “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[4.2 Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo T có thêm tình tiết giảm nhẹ là hoàn cảnh gia đình khó khăn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo H, C, L phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do đó cần xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho từng bị cáo.

Các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 54,55,56,66 ngày 31/3/2021 và ngày 14/4/2021 của Công an thị xã Bến Cát đối với Trương Văn D, Phạm Văn H, Nguyễn Văn L, Trương Thị D về hành vi đánh bạc là đúng quy định.

Đối với các số điện thoại nhắn tin mua số đề từ T, chưa xác định được chủ thuê bao, khi nào có kết quả xác minh, sẽ xử lý sau.

[5 Về xử lý vật chứng:

Cần:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ bài tây; các sim điện thoại số 0919.105.906, 0979.878.489, 0946.262.339, 0949.121.283, 0372.364.473.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:

+ Số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 3.952.000 đồng.

+ Số tiền 20.550.000 đồng dùng để đánh bạc của Dương Hoàng T.

+ Số tiền 8.741.000 đồng dùng để đánh bạc của Nguyễn Tuấn H.

+ Số tiền 2.800.000 đồng dùng để đánh bạc của Hồ Trọng C.

+ Số tiền 2.430.000 đồng dùng để đánh bạc của Trương Thị D.

+ 01 (một) Điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (Model TA1034).

+ 01 (một) Điện thoại di động hiệu Iphone 6 (số IMEI 354430060187037 máy trầy xước);

+ 01 (một) Điện thoại di động hiệu Samsung (máy trầy xước, cong vênh, không kiểm tra được Model và số IMEI).

+ 01 (một) Điện thoại di động hiệu Vivo (máy bị trầy xước, cong vênh, không kiểm tra được Model và số IMEI).

+ 01 (một) Điện thoại di động hiêu Samsung (máy bị trầy xước, cong vênh, không kiểm tra được Model và số IMEI) - Truy thu số tiền dùng để đánh bạc của bị cáo Dương Hoàng T là 23.265.000 đồng.

- Truy thu số tiền dùng để đánh bạc của bị cáo Nguyễn Tuấn H là 14.900.000 đồng.

- Truy thu số tiền dùng để đánh bạc của bị cáo Hồ Trọng C là 4.400.000 đồng. đồng.

- Truy thu số tiền dùng để đánh bạc của bị cáo Nguyễn Văn L 5.400.000 - Truy thu số tiền dùng để đánh bạc của Trương Thị D là 5.144.000 đồng.

[6 Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát về mức hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo T, H, C là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Việc Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo L là chưa đủ răn đe vì ngoài hành vi mua số đề ngày 12/01/2021 thì L còn có hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh binh xập xám thắng thua bằng tiền vào ngày 13/01/2021. Tuy nhiên, xét tính chất, mức độ của hành vi đánh bạc ngày 13/01/2021 chưa đủ yếu tố cấu thành tội đánh bạc theo Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên Công an thị xã Bến Cát đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với L. Bị cáo L có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm, không có tiền án, tiền sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo L. Đồng thời, Hội đồng xét xử áp dụng thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo L theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo L đã bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết khấu trừ thu nhập đối với bị cáo L.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Dương Hoàng T phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Dương Hoàng T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/01/2021.

2. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn H phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn H 01 năm cải tạo không giam giữ. Thời gian chấp hành cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Uỷ ban nhân dân phường H, thị xã B, tỉnh Bình Dương nhận được bản án, quyết định thi hành án của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát nhưng được khấu trừ vào thời gian tạm giữ từ ngày 14/01/2021 đến ngày 18/01/2021.

Giao bị cáo Nguyễn Tuấn H cho Ủy ban nhân dân phường H, thị xã B, tỉnh Bình Dương giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành cải tạo không giam giữ. Trường hợp bị cáo H thay đổi nơi cư trú sẽ thực hiện theo quy định tại Điều 68, khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Tuấn H 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng).

3. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58; Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Hồ Trọng C phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Hồ Trọng C 25 triệu đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

4. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58; Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 09 tháng cải tạo không giam giữ. Thời gian chấp hành cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Uỷ ban nhân dân phường H, thị xã B, tỉnh Bình Dương nhận được bản án, quyết định thi hành án của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát.

Giao bị cáo Nguyễn Văn L cho Ủy ban nhân dân phường H, thị xã B, tỉnh Bình Dương giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành cải tạo không giam giữ. Trường hợp bị cáo L thay đổi nơi cư trú sẽ thực hiện theo quy định tại Điều 68, khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Văn L 16.000.000đ (mười sáu triệu đồng).

5. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ bài tây; các sim điện thoại số 0919.105.906, 0979.878.489, 0946.262.339, 0949.121.283, 0372.364.473.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:

+ Số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 3.952.000 đồng (ba triệu chín trăm năm mươi hai nghìn đồng).

+ Số tiền 20.550.000 đồng (hai mươi triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) dùng để đánh bạc của Dương Hoàng T.

+ Số tiền 8.741.000 đồng (tám triệu bảy trăm bốn mươi mốt nghìn đồng) dùng để đánh bạc của Nguyễn Tuấn H.

+ Số tiền 2.800.000 đồng (hai triệu tám trăm nghìn đồng) dùng để đánh bạc của Hồ Trọng C.

+ Số tiền 2.430.000 đồng (hai triệu bốn trăm ba mươi nghìn đồng) dùng để đánh bạc của Trương Thị D.

+ 01 (một) Điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (Model TA1034).

+ 01 (một) Điện thoại di động hiệu Iphone 6 (số IMEI 354430060187037 máy trầy xước);

+ 01 (một) Điện thoại di động hiệu Samsung (máy trầy xước, cong vênh, không kiểm tra được Model và số IMEI).

+ 01 (một) Điện thoại di động hiệu Vivo (máy bị trầy xước, cong vênh, không kiểm tra được Model và số IMEI).

+ 01 (một) Điện thoại di động hiêu Samsung (máy bị trầy xước, cong vênh, không kiểm tra được Model và số IMEI).

- Truy thu số tiền dùng để đánh bạc của bị cáo Dương Hoàng T là 23.265.000 đồng (hai mươi ba triệu hai trăm sáu mươi lăm nghìn đồng).

- Truy thu số tiền dùng để đánh bạc của bị cáo Nguyễn Tuấn H là 14.900.000 đồng (mười bốn triệu chín trăm nghìn đồng).

- Truy thu số tiền dùng để đánh bạc của bị cáo Hồ Trọng C là 4.400.000 đồng (bốn triệu bốn trăm nghìn đồng).

- Truy thu số tiền dùng để đánh bạc của bị cáo Nguyễn Văn L 5.400.000 đồng (năm triệu bốn trăm nghìn đồng).

- Truy thu số tiền dùng để đánh bạc của Trương Thị D là 5.144.000 đồng (năm triệu một trăm bốn mươi bốn nghìn đồng).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương và Lệnh thanh toán ngày 13/7/2021, ngày 27/9/2021 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chi nhánh thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Dương Hoàng T, Nguyễn Tuấn H, Hồ Trọng C và Nguyễn Văn L mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 149/2021/HS-ST ngày 29/09/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:149/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về