Bản án 149/2020/HS-ST ngày 13/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

 BẢN ÁN 149/2020/HS-ST NGÀY 13/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:154/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 159/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Chau Sóc K, tên gọi khác: không; Sinh năm: 1999; Tại An Giang; Dân tộc: khmer; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 6/12; Hộ khẩu thường trú: ấp Mằng Rò, xã Văn G, huyện Tịnh B, tỉnh An Giang; Họ và tên cha: Chau Kh; Họ và tên mẹ: Nèang C; vợ Nèang Sóc C; Con Chau Sóc K, sinh năm 2017; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Đức Hòa từ ngày 14 tháng 9 năm 2020 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Công ty cổ phần dệt may Đông Kh, Địa chỉ: khu công nghiệp Tân Đô, xã Đức Hòa H, huyện C, tỉnh Long An.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Tăng Mỹ A, sinh năm 1997.

Địa chỉ: số 03 đường Nguyễn Văn Đ, phường 5, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Minh H, sinh năm 1984.

Địa chỉ: 558 Lê Hồng Phong, phường Phú H, thị xã E, tỉnh Bình Dương.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nèang Chanh N, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Ấp Srây Skốth, xã Văn G, huyện H, tỉnh An Giang.

2. Ông Phạm Minh T, sinh năm 1990.

Địa chỉ: A 113 Nguyễn Thần H, phường 18, F, Thành phố. Hồ Chí Minh.

Người làm chứng: Ông Nguyễn Trọng T, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Ấp Bình Tiền 1, xã Đức Hòa H, huyện C, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ ngày 29/8/2020, Chau Sóc K, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave, biển số kiểm soát: 67F1- 315.44 từ ký túc xá Đông Quang thuộc ấp Bình Tiền 1 xã Đức Hòa H, huyện C, tỉnh Long An đi tìm tài sản để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài cho cá nhân. Khoảng 03 giờ ngày 30/8/2020 K đến công ty Đông Kh, khu công nghiệp Hải Sơn, K để xe mô tô cặp sát hàng rào cách cổng chính Công ty khoảng 100 m, Chau Sóc K trèo qua hàng rào đột nhập vào bên trong đến khu vực để xe nâng hàng của Công ty, Chau Sóc K quan sát thấy không có người nên Sóc K mở nấp máy của 04 xe nâng số 05; 06; 07 và 23 lấy trộm 04 bình ắc quy gồm 01 bình ắc quy nhãn hiệu Platinum loại 105 D31 R 12 V, 90 AH; 01 bình ắc quy hiệu GS Platinum loại 12V, 70 AH và 02 bình ắc quy hiệu GS Plus one, loại 70E. Sau đó Chau Sóc K đem 04 bình ắc quy trộm được ra ngoài đến vựa phế liệu để bán nhưng không bán được. Lúc này Công an tuần tra đến phát hiện nên Chau Sóc K đã đầu thú và trình báo về hành vi phạm tội .

Tang vật thu giữ gồm: 04 bình ắc quy gồm: 01 bình ắc quy nhãn hiệu Platinum loại 105D31R 12 V, 90 AH; 01 bình ắc quy hiệu GS Platinum loại 12V, 70 AH và 02 bình ắc quy hiệu GS Plus one, loại N70E và 01 xe mô tô Ware màu xanh, biển số kiểm soát 67F1 -315.44 Ngày 01/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Hòa đã yêu cầu định giá tài sản số 160/ĐG/ĐTTH yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đức Hòa tiến hành định giá tài sản.

Bản kết luận giám định số 122/KL.ĐGTS ngày 09/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đức Hòa kết luận 04 bình ắc quy gồm: 01 bình ắc quy nhãn hiệu Platinum loại 105 D31R 12 V, 90 AH; 01 bình ắc quy hiệu GS Platinum loại 12V, 70 AH và 02 bình ắc quy hiệu GS Plus one, loại N70E có giá trị 3.440.000 đồng Bản cáo trạng số 154/CT-VKSĐH ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An truy tố bị cáo Chau Sóc K về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, Kiểm sát viên sau khi phân tích tính chất và mức độ nguy hiểm xã hội của hành vi vi phạm pháp luật mà bị cáo Chau Sóc K gây ra; đồng thời căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tuyên bố bị cáo Chau Sóc K, phạm tôi “Trộm cắp tài sản” đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Chau Sóc K mức hình phạt từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Đối với xe mô tô biển số kiểm soát 67 F1 – 315.44 là tài sản hợp pháp của bà Nèang Chanh N, Cơ quan điều tra đã giao trả cho bà N xong nên không đề nghị xem xét.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện công ty Đông Kh là ông Lê Minh H đã nhận lại tài sản không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự.

Bà Nèang Chanh N là mẹ vợ của bị cáo Kia cho mượn xe mô tô biển số 67 F1 – 315.44 để bị cáo sử dụng nhưng không biết việc K sử dụng xe làm phương đi tìm tài sản trộm cắp, nên hành vi của bà Chanh N không cấu thành tội phạm.

Tại phiên tòa bị cáo Chau Sóc K đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa truy tố, không đưa ra chứng cứ nào minh oan chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đức Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của người bị hại là ông H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nèang Chanh N và ông Phạm Minh T và người làm chứng vắng mặt. Xét bà N, ông T và người làm chứng là ông Trọng T, vắng mặt đã có lời khai trong quá trình điều tra và họ không có yêu cầu nào khác đối với bị cáo nên việc vắng mặt những người này không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị hại, người liên quan, người làm chứng theo quy định tại Điều 292; Điều 293 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Về nội dung:

[3] Hành vi phạm tội: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và những người tham gia tố tụng khác cũng như những tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ là phù hợp. Theo đó xác định vào khoảng 03 giờ ngày 30/8/2020 Chau Sóc K đã lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của Công ty Đông Kh, thực hiện hành vi lén lút trộm 04 bình ắc quy. Qua định giá tài sản là 04 bình ắc quy gồm: 01 bình ắc quy nhãn hiệu Platinum loại 105 D31R12 V, 90 AH; 01 bình ắc quy hiệu GS Platinum loại 12V, 70 AH và 02 bình ắc quy hiệu GS Plus one, loại N70E có giá trị 3.440.000 đồng. Sau đó bị cáo K bị tạm giữ và thu hồi toàn bộ số tài sản bị cáo chiếm đoạt trả cho chủ sở hữu. Trên cơ sở đó đã có đủ bằng chứng để kết luận rằng bị cáo Chau Sóc K phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Như vậy, cáo trạng 154/CT-VKSĐH ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa đã truy tố bị cáo Chau Sóc K với tội danh và điều luật nêu trên là có cơ sở đúng theo quy định của pháp luật.

[4] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo Chau Sóc K là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là một công dân có đầy đủ lý trí để nhận thức được rằng tài sản hợp pháp của mọi tổ chức và cá nhân được pháp luật bảo vệ nếu người nào cố tình chiếm đoạt sẽ bị pháp luật xử lý nhưng bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý, mục đích của bị cáo là chiếm đoạt tài sản của bị hại để tiêu xài cho cá nhân. Hành vi của bị cáo phải được xử lý nghiêm.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Chau Sóc K đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đầu thú. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm i; s khoản 1; khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) nên khi áp dụng hình phạt cho bị cáo có xem xét giảm nhẹ một phần.

[5]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo Chau Sóc K là có cơ sở theo quy định pháp luật.

[6]. Về xử lý vật chứng vụ án: Xe mô tô biển số kiểm soát số 67 F1 - 315.44 loại Wave của bà Bà Nèang Chanh N; 04 bình ắc quy gồm: 01 bình ắc quy nhãn hiệu Platinum loại 105 D31 R 12 V, 90 AH; 01 bình ắc quy hiệu GS Platinum loại 12V, 70 AH và 02 bình ắc quy hiệu GS Plus one, loại N70E của Công ty Đông Kh cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức hòa đã trả cho bà Nèang Chanh N xong không có yêu cầu hay đề nghị gì thêm nên không đề cập.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là Công ty Đông Kh, trong lời khai đã nhận lại tài sản không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đề cập xem xét. Nếu sau này có phát sinh yêu cầu bồi thường sẽ tách ra giải quyết bằng một vụ án khác.

[8]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Chau Sóc K phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Chau Sóc K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1, Điều173; điểm i, s khoản 1, khoản 2, Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Chau Sóc K 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giạm ngày 14/9/2020.

Căn cứ Điều 135, 136, 333 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Chau Sóc K phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (ngày 13/11/2020). Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 149/2020/HS-ST ngày 13/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:149/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về