Bản án 149/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 149/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố B (TP. B), tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 132/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 142/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Minh Th, tên gọi khác: Th kh; sinh ngày: 03/7/1990; tại:

Lâm Đồng; HKTT và nơi cư trú: Thôn N, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; trình độ văn hóa: 07/12; nghề nghiệp: Làm vườn; con ông: Bùi Văn Kh và bà Trần Thị M; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Bản án số 70 ngày 09/8/2007 của Tòa án nhân dân thị xã B (nay là thành phố B) xử phạt Bùi Minh Th 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS 1999. Bản án số 42 ngày 07/9/2009 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt Bùi Minh Th 36 tháng tù về tội “Cướp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 133 BLHS 1999. Bản án số 61 ngày 30/10/2012 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt Bùi Minh Th 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 BLHS 1999. Bản án này xác định Bùi Minh Th phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”. Bùi Minh Th chưa chấp hành việc bồi thường dân sự trong bản án nên chưa được xóa án tích. Bị tạm giam từ ngày 04/9/2019 cho đến nay, có mặt.

- Bị hại: Anh Đinh Tân C, sinh năm: 1986; trú tại: Số nhà K, đường N, Tổ X, phường L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt có lý do.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Phạm Minh Đ, sinh năm 1988, trú tại: Thôn N, xã Đ, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 13/11/2018, Bùi Minh Th điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Quang Th1 đi đến nhà của anh Đinh Tân C, ở số M đường N, phường L, TP. B thì nhìn thấy 01 con chó giống Alaska của anh C chạy trên đường nên Th và Th1 đã bắt con chó của anh C mang đi cất giấu chờ tiêu thụ. Đến ngày hôm sau 14/11/2018, Th và Th1 nói cho Nguyễn Quang Th2, trú tại Tổ K, phường L, TP. B biết con chó này là do Th và Th1 trộm cắp của anh C. Sau đó, Th, Th1 và Th2 mang con chó đến gửi cho anh Lưu Danh Tr, địa chỉ: Thôn M, xã Đ, TP. B là người quen của Th3. Đến khoảng 10 giờ ngày 15/11/2018, Th3 đến nhà anh Tr bán con chó này cho anh Phạm Minh Đ, trú tại Thôn M, xã Đ, TP. B được 4.000.000 đồng mua mua ma túy sử dụng. Sau khi cùng đồng phạm thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản của anh C thì Th đã bỏ trốn khỏi địa phương. Đến ngày 04/9/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã bắt được Bùi Minh Th theo quyết định truy nã.

Theo kết luận số 115 ngày 27/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố B xác định tài sản là con chó Alaska của anh Đinh Tân C trị giá 15.000.0000 đồng.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại 01 con chó Alaska cho chủ sở hữu là anh Đinh Tân C. Anh Nguyễn Minh Đ đã được Nguyễn Quang Th3 bồi thường số tiền 4.000.000 đồng nên anh C và anh Đ không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã nêu, không có thắc mắc khiếu nại đối với nội dung bản cáo trạng. Bị cáo nhận thức hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật.

Bản Cáo trạng số 138/CT-VKS.BL ngày 05 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân TP. B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Bùi Minh Th về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 13/11/2018 tại phường Lộc Phát, TP. B, Bùi Minh Th và Nguyễn Quang Th1 thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh Đinh Tân C trị giá 15.000.000 đồng. Nguyễn Quang Th1 đã bị xét xử tại bản án hình sự sơ thẩm số 32/2019/HSST ngày 29 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân TP. B. Hành vi của Bùi Minh Th đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương, vi phạm pháp luật hình sự. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Th từ 30 đến 36 tháng tù và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nói lời sau cùng: Trong thời gian bị tạm giam bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an TP. B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản, Bùi Minh Th đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản trị giá 15.000.000đ. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đang có tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích. Hành vi của Bùi Minh Th đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội Bùi Minh Th bỏ trốn, cơ quan C sát Điều tra Công an TP. B đã bắt bị cáo theo lệnh truy nã, do vậy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định trong Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo: Bị cáo thành khẩn khai báo, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự Xét thấy: Cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa.

[3]. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng đã được giải quyết tại một bản án khác do vậy không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[4]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Bùi Minh Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Bùi Minh Th 02 (Hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/9/2019.

2/ Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số 326 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo, riêng người vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 149/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:149/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về