Bản án 149/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, TP HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 149/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 162/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 178/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

HUỲNH KIM T; sinh ngày 17 tháng 12 năm 1997 tại Phú Yên; nơi đăng ký thường trú: thôn Phú Sen T, xã A, huyện B, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Huỳnh Thái C (chết) và bà Lê Thị L; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam: 16/8/2019.(Có mặt)

Bị hại: Bà Trịnh Thị L, sinh năm 1967, nơi cư trú: số nhà 22C đường Lam S, Phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Huỳnh Kim T làm thuê cho quán phở Vân tại số nhà 22C đường Lam S, Phường C, quận D và được bố trí ở cùng phòng với bà Trịnh Thị L. Khoảng 20 giờ ngày 04/12/2018, khi đang nằm trong phòng thì T nhìn thấy bà L mở tủ lấy bóp ra đếm tiền, sau đó cất lại bóp vào tủ, khóa lại rồi đi ra khỏi phòng. Do đang cần tiền trả nợ và tiêu xài nên T dùng tay phải kéo mạnh cánh tủ bên phải hở ra khoảng 10 cm, rồi luồn tay trái vào trong tủ kéo chiếc bóp ra, lấy hết tiền xong để bóp lại chỗ cũ và khép cánh tủ quần áo lại như ban đầu. Sau đó, T ra khỏi phòng, giả vờ nói với bà L là đi công việc, rồi bắt xe ôm bỏ trốn.

Khoảng 22 giờ cùng ngày 04/12/2018, bà L thấy T không quay về nên nghi ngờ, kiểm tra tủ quần áo phát hiện bị mất toàn bộ tiền trên nên đã trình báo Công an Phường 2, quận Tân Bình.

Ngày 20/3/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình ra thông báo truy tìm Huỳnh Kim T. Đến đầu tháng 8/2019, T về tỉnh Phú Yên thăm gia đình. Công an huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên đã mời T làm việc và thông báo cho Công an quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh bắt giữ.

Qúa trình điều tra T khai: Sau khi lấy được tiền, T ra khỏi phòng và thuê xe bỏ trốn, trên đường đi, T lấy tiền ra đếm được tổng cộng 59.500.000 đồng. Đến Bình Dương, T lấy tiền trả nợ hết 38.000.000 đồng (không xác định được người T mượn tiền là ai, địa điểm trả tiền) rồi tiếp tục đón xe ôm đến huyện E, Thành phố Hồ Chí Minh (không xác định được địa điểm) sống và xin làm phụ hồ. Trong thời gian sống tại huyện E, T đã tiêu xài hết số tiền trộm cắp còn lại.

Quá trình điều tra, Huỳnh Kim T đã thừa nhận hành vi phạm tội như nêu trên, phù hợp với lời khai của bị hại, kết quả thực nghiệm điều tra, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng vụ án:

- Số tiền 59.500.000 đồng T trộm cắp của bà Trịnh Thị L, không thu hồi được.

- 01 chiếc túi xách của bà Trịnh Thị dùng để cất số tiền 59.500.000 đồng. Cơ quan Công an đã trả lại cho bà L. Bà L không thắc mắc, khiếu nại gì.

Tại bản cáo trạng số 157/CT-VKS ngày 14 tháng 11 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Huỳnh Kim T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đã trình bày luận tội, cụ thể: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua lời khai của bị cáo, bị hại thì hành trộm cắp số tiền 59.500.000 đồng của bà Trịnh Thị Loan của bị cáo Huỳnh Kim T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật nhà nước bảo vệ, làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an tại địa phương, bị cáo phạm tội do cố ý nên cần xử phạt bị cáo mức án phù hợp để có tác dụng giáo dục răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tác động để gia đình bồi thường cho bị hại số tiền 59.500.000 đồng, bị hại có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ căn cứ trên đề nghị áp dụng điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm c khoản 2 Điều 173 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Trịnh Thị L đã được gia đình bị cáo bồi thường đủ số tiền 59.500.000 đồng. Hiện bà L không có yêu cầu gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét lại.

Về vật chứng vụ án: 01 chiếc túi xách thu giữ của bà Trịnh Thị L. Cơ quan công an đã trả lại cho bà L. Hiện không có ai thắc mắc, khiếu nại gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét lại.

Sau phần luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận, tranh tụng với Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo để chiếu cố giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhằm giúp cho bị cáo sửa chữa lỗi lầm của mình và có cơ hội chăm lo cho gia đình bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo theo các tài liệu, chứng cứ được Công an quận Tân Bình lập, thì việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình ra quyết định tạm giữ, khởi tố vụ án, khởi tố bị can ra quyết định tạm giam để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với bị cáo Huỳnh Kim T về hành vi trộm cắp tài sản quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, thẩm tra các tài liệu, chứng cứ, luận tội, tranh tụng; nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua việc thẩm tra các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo, bị hại thì hành vi lén lút chiếm đoạt số tiền 59.500.000 đồng là hành vi vi phạm pháp luật, bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội do cố ý nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Đồng thời qua phần phân tích, đánh giá, nhận định của đại diện Viện kiểm sát trong phần luận tội, nhận thấy những căn cứ Viện kiểm sát viện dẫn làm cơ sở chứng minh hành vi phạm tội để đề nghị truy tố, xử phạt bị cáo như đã nêu trên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Xét do muốn có tiền phục vụ nhu cầu cá nhân mà bị cáo đã cố ý phạm tội, vì vậy cần xử bị cáo mức án phù hợp để có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tác động để gia đình bồi thường cho bị hại, bị hại có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cần giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Việc đại diện viện kiểm sát căn cứ tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng, nhân thân bị cáo để đề nghị áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm c khoản 2 Điều 173 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Trịnh Thị L đã được gia đình bị cáo bồi thường đủ số tiền 59.500.000 đồng. Hiện bà L không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét lại như đề nghị của Viện kiểm sát.

[5] Về vật chứng vụ án: 01 chiếc túi xách thu giữ của bà Trịnh Thị L. Cơ quan công an đã trả lại cho bà L. Hiện không có ai thắc mắc, khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không xem xét lại như đề nghị của Viện kiểm sát.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Luật phí, lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Huỳnh Kim T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: HUỲNH KIM T 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời hạn tù tính từ ngày 16/8/2019.

[2] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sư có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015).

Hội đồng xét xử đã giải thích về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án cho đương sự theo quy định tại Điều 26 Luật Thi hành án (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015).

[3] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt, niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 149/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:149/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về