Bản án 149/2019/HSST ngày 22/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 149/2019/HSST NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 150/2019/HSST, ngày 07-11-2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 157/2019/QĐXXST-HS ngày 11-11-2019 đối với bị cáo:

Tòng Văn T; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1993; tại xã CĐ, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản P, xã CĐ, thành phố, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Tòng Văn Hoan (đã chết) và bà Tòng Thị Ươi; sinh năm: 1964; bị cáo chưa có vợ con; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 27-9-2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 24 (hai mươi tư) tháng về tội: Mua bán trái phép chất ma túy; bị cáo bị bắt giam giữ kể từ ngày 01-9- 2019, cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 01-9-2019, Tổ công tác Ban Công an xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản P, xã MN, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt quả tang: Tòng Văn T, trú tại: Bản P, xã CĐ, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm: 01 (một) gói giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng, bên trong có chứa 02 (hai) viên nén hình trụ màu hồng, nghi là ma túy tổng hợp (T khai là ma túy tổng hợp), có khối lượng 0,19 gam, ký hiệu T1. Rút toàn bộ 0,19 gam 02 viên nén hình trụ màu hồng có khối lượng 0,19 gam ký hiệu T1 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số: 1456/KLMT, ngày 06-9-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “ Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là chất ma túy, loại chất Methamphetamin, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,19 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là: 0,19 gam loại Methamphetamine”. (Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định).

Tại cơ quan điều tra bị cáo Tòng Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Khoảng 17 giờ, ngày 01-9-2019, Tòng Văn T thuê xe taxi từ bản P, xã MN, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xuống thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi Tòng Văn T xuống đến địa phận Két nước thuộc phường TH, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La thì xuống xe. Tòng Văn T đi bộ được khoảng 10m, Tòng Văn T gặp một người đàn ông dân tộc Kinh (Tòng Văn T không biết tên tuổi và địa chỉ cụ thể ở đâu) nhìn giồng người nghiện ma túy. Tòng Văn T hỏi và mua được của người đàn ông này 02 (hai ) viên ma túy tổng hợp, được gói bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng với giá 150.000đ. Sau khi mua được ma túy, Tòng Văn T thuê xe ôm quay lại bản P, xã M N, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La chơi. Khi đang đi chơi thì gặp tổ công tác Công an xã MN, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La yêu cầu kiểm tra ma túy. Quá trình kiểm tra phát hiện và bắt quả tang Tòng Văn T có hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng như đã nêu.

Bản cáo trạng số: 150/CT-VKS, ngày 07-11-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố bị cáo Tòng Văn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Tòng Văn T về điều, khoản và tội danh trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Tòng Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Tòng Văn T mức án từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01-9-2019.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Tòng Văn T.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 (một) mảnh giấy, mặt trước màu trắng, mặt sau màu vàng + 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ.

Bị cáo Tòng Văn T phải chịu toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Ý kiến của bị cáo Tòng Văn T: Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về nhà với gia đình và xã hội

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[2]. Ngày 01-9-2019, Tòng Văn T; trú tại: Bản P, xã CĐ, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,19 gam, Methamphetamine. Mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân.

Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo Tòng Văn T tại phiên tòa ngày hôm nay, hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận bị cáo Tòng Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định :

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)………….

c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Tòng Văn T, tàng trữ trái phép chất ma tuý với khối lượng không lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Cần vận dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức án phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với bị cáo Tòng Văn T.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Tòng Văn T đã có một tiền án chưa được xóa án tích, nay lại cố tình phạm tội nghiêm trọng là tái phạm được quy định khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự và là tình tiết tăng nặng đối với bị cáo được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Tòng Văn T tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Song nhân thân bị cáo là người nghiện ma túy, nhận thức rõ tác hại của ma tuý nhưng do coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội nghiêm trọng. Nay xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhất là công tác phòng chống tội phạm và tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

Bị cáo Tòng Văn T đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Tòng Văn T còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về nguồn gốc số ma túy Tòng Văn T khai mua của một người thanh niên dân tộc Kinh (Tòng Văn T không biết họ tên và địa chỉ cụ thể ở đâu) tại khu vực Két nước thuộc phường TH, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La vào ngày 01-9-2019 với giá 150.000đ. Do chỉ có lời khai duy nhất của Tòng Văn T, ngoài ra không có chứng cứ nào khác nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La không có căn cứ để điều tra xử lý.

[3]. Về vật chứng vụ án: Đối với 01 (một) mảnh giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng + 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ. Xét không còn giá trị sử dụng cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Vận dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[4]. Về án phí: Bị cáo Tòng Văn T phải chịu toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm. Vận dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Tòng Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Tòng Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01-9-2019 (là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tiêu hủy Một phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Tòng Văn T. Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 01- 9-2019, mặt sau được gián giấy niêm phong, trên mặt giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, có hai hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu: Một mảnh giấy mặt trước màu trắng, mặt sau màu vàng + một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

4. Về Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Tòng Văn T phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Tòng Văn T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 149/2019/HSST ngày 22/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:149/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về