Bản án 149/2017/HS-ST ngày 30/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 149/2017/HS-ST NGÀY 30/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30/11/2017, tại Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xét xử công khai, sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 145/2017/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2017, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Anh T, sinh năm 1995.

Trú tại: Số 22/2, ấp L, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

Trình độ học vấn: 8/12. Nghề nghiệp: không.

Con ông Phan Ngọc Dũng, sinh năm: 1968 và bà Đinh Thị Tuyết, sinh năm: 1962

Gia đình có 02 anh em, bị can là con đầu và chưa có vợ con. Tiền án: 01, cụ thể:

- Ngày 08/5/2014, bị Tòa án nhân dân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 155/2014/HSPT. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/8/2014.

Tiền sự: 02, cụ thể:

- Ngày 21/3/2017, bị Công an xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom xử phạt hành chính về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 02/QĐ-XPVPHC.

- Ngày 03/5/2017, bị Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo Quyết định số 420/QĐXP-VPHC.

Bị giam giữ từ ngày 10 tháng 8 năm 2017 tại nhà tạm giữ Công an huyện

Trảng Bom. (Có mặt).

2. Đỗ Thanh C (tên gọi khác: C), sinh năm 1989

Trú tại: 94Z/5, khu phố 4, phường T, thanh phố B, tỉnh Đồng Nai.

Trình độ học vấn: 6/12.

Nghề nghiệp: không.

Con ông Đỗ Đức T, sinh năm: 1965 (đã chết) và bà Võ Thị T, sinh năm:1965

Gia đình có 07 anh em, bị can là con thứ 2 và chưa có vợ con.

Tiền án: Không

Tiền sự: 03, cụ thể:

- Ngày 22/7/2011, Ủy ban nhân dân phường Tân Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại cấp xã, chấp hành xong ngày 22/01/2012.

- Ngày 24/7/2013, Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, chấp hành xong ngày25/7/2015.

- Ngày 27/4/2016, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 24 tháng.

- Bị giam giữ từ ngày 20 tháng 9 năm 2017 tại nhà tạm giữ Công an huyện Trảng Bom. (Có mặt).

Người bị hại:

1/ Anh Đoàn Anh T, sinh năm 1982, chị Đỗ Thị Thanh V, sinh năm 1980.

Trú tại: Số 381, xóm 2, tổ 16, ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

2/ Anh Đỗ Đình C, sinh năm 2000. Trú tại: tổ 5, ấp L, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (do ông Đỗ Công C và bà Nguyễn Thị L là người đại diện hợp pháp); cùng trú tại: tổ 5, ấp L, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

3/ Võ Minh T, sinh ngày 30/3/2007. Trụ tại: tổ 1, ấp L, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai (do anh Võ Minh T và chị Phạm Thị L là người đại diện hợp pháp); cùng trú tại: tổ 5, ấp L, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Chị Phạm Thị L, sinh năm 1983.

Trú tại: tổ 1, ấp L, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai (Có mặt).

2/ Anh Võ Minh T, sinh năm 1965.

Trú tại: tổ 1, ấp L, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai (Có mặt).

3/ Anh Nguyễn Bình A, sinh năm 1990.

Trú tại: Số 209/3, khu phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

NHẬN THẤY

Các bị cáo bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Phan Anh T (có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích) và Đỗ Thanh C là bạn bè với nhau và cùng nghiện ma túy. Do cần tiền để sử dụng ma túy và tiêu xài cá nhân nên trong khoảng thời gian từ ngày 02/5/2017 đến ngày 27/5/2017, Phan Anh T và Đỗ Thanh C đã thực hiện các vụ chiếm đoạt tài sản trên địa bàn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 19 giờ ngày 02/5/2017, Phan Anh T điều khiển xe mô tô hiệu Wave màu xanh (không rõ biển số) đi ngang qua nhà anh Ngô Văn K ở tổ 5, ấp L, xã H, huyện Trảng Bom phát hiện nhà anh K khóa cửa ngoài, không có người ở nhà nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản trong nhà anh K. T dựng xe bên hông nhà anh K và quan sát qua cửa sổ thấy có 01 máy vi tính xách tay hiệu Asus Core i3 màu xám đen là tài sản thuộc quyền sở hữu của anh Đỗ Đình C để trên bàn trong nhà gần cửa sổ, T nhặt 01 khúc cây gỗ dàikhoảng 60cm, đường kính khoảng 03cm đập vỡ kính cửa sổ và thò tay qua cửa sổ lấy trộm máy vi tính xách tay nói trên rồi mang bán cho 01 người đàn ông (chưa rõ nhân thân lai lịch) tại khu vực phường Hố Nai, thành phố Biên Hòa với giá 2.000.000đ mua ma túy sử dụng và tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 08 giờ ngày 07/5/2017, Đỗ Thanh C điều khiển xe mô tô hiệu Wave màu xanh (không rõ biển số) chở Phan Anh T đi ngang qua nhà anh Đoàn Anh T, ở ấp T, xã H, huyện T, C phát hiện nhà anh T mở cổng và bên trong sân có dựng xe mô tô biển số 60Z1 – 8486 (là tài sản chung của vợ chồng anh Đoàn Anh T và chị Đỗ Thị Thanh V) cắm sẵn chìa khóa trong ổ khóa điện, C nói “có xe cắm sẵn chìa khóa kìa”, T nói C dừng xe lại, C ở ngoài làm nhiệm vụ cảnh giới còn T đi vào trong lấy trộm xe mô tô trên rồi điều khiển xe mô tô về nhà C ở khu phố 4, phường T, thành phố B. Tại đây, C tháo biển số xe 60Z1 – 8486 rồi cùng T mang xe mô tô đến khu vực cầu Săn Máu, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa bán cho đối tượng tên T (chưa rõ nhân thân lai lịch) được 2.500.000đ chia nhau mua ma túy sử dụng và tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ ba: Vào khoảng 10 giờ ngày 27/5/2017, T điều khiển xe mô tô hiệu Wave màu xanh (không rõ biển số) đi ngang qua nhà chị Phạm Thị L, ở tố 1, ấp L, xã H, huyện T thấy nhà chị L mở cổng, cửa nhà khóa bên ngoài. T dựng xe mô tô và đi vào trong sân thì thấy cháu Phạm Bảo P sinh năm 2010 đang đứng ngoài cửa sổ và bên trong nhà có cháu Võ Minh T, sinh năm 2007 (con của chị L) đang cùng xem ti vi hiệu Sony Bravia loại 32 inch, T nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc ti vi trên, T đưa cho cháu P 20.000đ nói cháu P đi mua bánh. Khi cháu P vừa đi, T đi vòng ra cửa sau nhà và phá khóa cửa đi vào trong nhà, T nói với cháu T “bố cháu nói chú mang ti vi đi sửa”, đồng thời T rút dây cắm điện và vác ti vi ra ngoài theo lối cửa sau, khi T vác ti vi đến phòng bếp thì cháu T chạy theo T ngăn cản “trả lại ti vi cho cháu”, lúc này T lấy 01 con dao lưỡi bằng kim loại dài 20cm, bản rộng 05cm, cán bằng gỗ dài 10cm để trong nhà bếp và chĩa về phía cháu T đe dọa “im miệng, nếu không chết với tao”, cháu T sợ hãi không dám ngăn cản và bỏ chạy lên phòng khách, T vác ti vi ra ngoài đặt lên xe và chở chiếc ti vi trên đến nhà anh Bùi Phi L, ở ấp L, xã H, huyện T bán cho anh Nguyễn Bình A với giá 2.000.000đ mua ma túy sử dụng và tiêu xài cá nhân hết số tiền trên. Sau khi bị chiếm đoạt tài sản, chị L và cháu T đã trình báo Công an xã Hố Nai 3. Quá trình làm việc tại Công an xã Hố Nai 3, T đã thừa nhận hành vi chiếm đoạt tài sản của mình như đã nêu trên, Công an xã Hố Nai 3 đã thu giữ con dao T sử dụng để uy hiếp cháu T và chiếc ti vi hiệu Sony Bravia loại 32 inch của gia đình chị L.

Theo biên bản định giá của Hội đồng định giá tài sản huyện Trảng Bom ngày 09/6/2017 kết luận: 01 máy vi tính xách tay hiệu ASUS, Core i3 màu xanh đen đã qua sử dụng có trị giá 7.500.000đ; 01 xe mô tô biển số 60Z1 – 8486, số máy 1137398, số khung 137336 màu sơn đỏ- đen, đã qua sử dụng có trị giá7.000.000đ; 01 tivi Sony Bravia, 32inch, Model NO KVL-32EX330 màu đen đãqua sử dụng có trị giá 2.800.000đ.

Ngày 23/6/2017, cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị Nguyễn Thị L: 01 tivi hiệu Sony Bravia, màn hình 32inch, Model NO KVL-32EX330, Ser NO 218276 màu đen.

Đối với hành vi mua ma túy sử dụng của Phan Anh T, Đỗ Thanh C, do không xác định được người bán ma túy cho T và C nên không có cơ sở để xử lý.

Đối với anh Bùi Phi L, Nguyễn Bình A, khi mua tivi Sony Bravia, 32inchanh L và anh A không biết tài sản trên là do phạm tội mà có nên không có cơ sở xử lý.

Đối với đối tượng tên T là người mua xe mô tô biển số 60Z1-8486 từ Phan Anh T, Đỗ Thanh C và người đàn ông mua máy vi tính xách tay hiệu ASUS, Core i3 từ T, do không rõ nhân thân lai lịch địa chỉ nên không có cơ sở xác minh làm rõ.

Trách nhiệm dân sự: Gia đình Phan Anh T đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho vợ chồng anh Đoàn Anh T, chị Đỗ Thị Thanh V và anh Đỗ Đình C. Anh T, chị V và anh C không yêu cầu gì khác về mặt dân sự.

Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bomđã trả lại ti vi Sony Bravia, 32inch cho chị Phạm Thị L, chị L không có yêu cầu gì khác về dânsự.

Đối với xe mô tô biển số 60Z1 – 8486 số máy 1137398, số khung 137336 và máy vi tính xách tay hiệu ASUS, Core i3, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã tiến hành xác minh nhưng không có kết quả nên chưa thu hồi được.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu Wave màu xanh (không rõ biển số) mà T và C sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội trong ba vụ chiếm đoạt nêu trên là xe mô tô C mượn của 01 người phụ nữ tên T (chưa rõ nhân thân, lai lịch). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã tiến hành xác minh nhưng chưa làm việc được với chị T nên không có cơ sở để xử lý.

Đối với khúc cây gỗ mà T sử dụng làm công cụ thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại nhà anh Đoàn Anh T và biển số xe của xe mô tô biển số 60Z1 – 8486, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã tiến hành truy tìm nhưng không thu hồi được.

Tại bản cáo trạng số: 155/CT/VKS-HS ngày 09/11/2017, VKSND huyện Trảng Bom truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Trảng Bom để xét xử Phan Anh T về các tội: “Trộm cắp tài sản” và “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 138 và khoản 1 Điều 135 của Bộ luật hình sự Đỗ Thanh C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Phan Anh T từ 08 (Tám) tháng đến 10 (Mười)tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; từ 12 (Mười hai) tháng đến 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Đỗ Thanh C từ 06 tháng đến 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 con dao lưỡi bằng kim loại dài 20cm, bản rộng 05cm, cán bằng gỗ dài khoảng 10cm vì không còn giá trị sử dụng

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên, cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

XÉT THẤY

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận: Trong khoảng thời gian từ ngày 02/5/2017 đến ngày 27/5/2017, Phan Anh T và Đỗ Thanh C đã thực hiện các vụchiếm đoạt tài sản trên địa bàn xã H, huyện T, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 19 giờ ngày 02/5/2017, tại nhà anh Ngô Văn K thuộc tổ 5, ấp L, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai, Phan Anh T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 máy vi tính xách tay hiệu Asus Core i3 màu xám đen của anh Đỗ Đình C có giá trị là 7.500.000đ.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 08 giờ ngày 07/5/2017, tại nhà anh Đoàn Anh T và chị Đỗ Thị Thanh V thuộc ấp T, xã H, huyện t, tỉnh Đồng Nai, Phan Anh T và Đỗ Thanh C có hành vi lén lút trộm cắp 01 xe mô tô biển số 60Z1 – 8486 của anh T chị V có trị giá là 7.000.000đ.

Vụ thứ ba: Vào khoảng 10 giờ ngày 27/5/2017, tại nhà anh Võ Minh T và chị Phạm Thị L thuộc ấp L, xã H, huyện T, tính Đồng Nai, Phan Anh T có hành vi sử dụng dao đe dọa sẽ dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần cháu Võ Minh T sinh năm 2007 để chiếm đoạt 01 tivi hiệu Sony Bravia 32inch của anh T, chị L trị giá 2.800.000đ

Như vậy, bị cáo Phan Anh T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 và “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 135 của Bộ luật hình sự. Đỗ Thanh C đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác nên cần xử phạt các bị cáo mức án nghiêm khắc mới có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người công dân tốt, sống tuân thủ pháp luật, đồng thời còn nhằm răn đe và phòng ngừa chung. Đối với bị cáo Đỗ Thanh C đồng phạm với bị cáo T, C nói “có xe cắm sẵn chìa khóa kìa”, C ở ngoài làm nhiệm vụ cảnh giới còn T đi vào trong lấy trộm xe môtô trên rồi điều khiển xe mô tô về nhà C. Tại đây, C tháo biển số xe 60Z1 – 8486 rồi cùng T mang xe mô tô đi tiêu thụ. T và C cùng tham gia thực hiện tội phạm nhưng không có sự câu kết chặt chẽ với nhau cũng không có sự phân công, bàn bạc, sắp đặt vai trò và hứa hẹn ăn chia cụ thể như thế nào, các bị cáo phạm tội mang tính đồng phạm, song ở mức độ giản đơn.

Xét về các tình tiết tăng nặng, trách nhiệm hình sự của từng bị cáo thì thấy: Bị cáo T trong khoảng thời gian ngắn đã phạm tội nhiều lần có nhân thânxấu, có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội. Đây là tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần, tái phạm”, “phạm tội đối với trẻ em” quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo Tuấn đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, áp dụng điểm b, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Bị cáo C phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng điểm h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự. Do đó Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Đối với hành vi mua ma túy sử dụng của Phan Anh T và Đỗ Thanh C, do không xác định được người bán ma túy cho T và C nên không có cơ sở để xử lý.

Đối với anh Bùi Phi L, Nguyễn Bình A, khi mua tivi Sony Bravia, 32inch anh L và anh A không biết tài sản trên là do phạm tội mà có nên không có cơ sở xử lý.

Đối với đối tượng tên T là người mua xe mô tô biển số 60Z1-8486 từ Phan Anh T, Đỗ Thanh C và người đàn ông mua máy vi tính xách tay hiệu ASUS, Core i3 từ T, do không rõ nhân thân lai lịch địa chỉ nên tách ra xử lý sau.

Về biện pháp tư pháp: Người bị hại đã nhận lại tài sản và nhận tiền bồi thường, không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với 01 con dao lưỡi bằng kim loại dài 20cm, bản rộng 05cm, cán bằng gỗ dài khoảng 10cm vì không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phan Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản” và “Cưỡng đoạt tài sản”. Bị cáo Đỗ Thanh C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; khoản 1 Điều 135; điểm g, h khoản 1 Điều 48, điểm b, p khoản 1 Điều 46, Điều 50 và Điều 53 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Anh T 01 (Một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, 01 (Một) năm 04 (Bốn) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Bị cáo Phan Anh T phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 02 (Hai) năm 04 (Bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10 tháng 8 năm 2017.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46 và Điều 53 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh C 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20 tháng 9 năm 2017 .

Áp dụng điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 con dao lưỡi bằng kim loại dài 20cm, bản rộng 05cm, cán bằng gỗ dài khoảng 10cm là công cụ bị cáo dùng để phạm tội (vật chứng này đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom theo biên bản giao vật chứng ngày 09/11/2017).

2. Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc Phan Anh T và Đỗ Thanh C mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo Phan Anh T, Đỗ Thanh C, anh Võ Minh T, chị Pham Thị L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Đoàn Anh T, chị Đỗ Thị V, anh Đỗ Đình C, anh Nguyễn Bình A có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

328
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 149/2017/HS-ST ngày 30/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:149/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về