Bản án 148/2021/HS-ST ngày 21/07/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 148/2021/HS-ST NGÀY 21/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 126/2021/HSST ngày 28 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 130/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Đỗ Hồ Anh Q (Tên gọi khác: U), sinh ngày 07/7/1996, tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Số 235/22D đường B, phường X, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; cha không rõ, con bà Đỗ Thị H, sinh năm 1959; gia đình có 03 chị em ruột, bị cáo là con út; vợ con: Chưa có.

* Quá trình nhân thân: Từ nhỏ ở với gia đình tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, học văn hóa đến lớp 6/12 thì nghỉ học.

- Ngày 10/7/2014, bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 01 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” và tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (Bản án số 87/2014/HSPT);

- Ngày 04/11/2016, bị Công an thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (QĐ số 1134);

- Ngày 23/5/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 07 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 105/2017/HSST);

- Ngày 26/9/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 09 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự (Bản án số 168/2018/HSST);

- Ngày 30/9/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 10 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự (Bản án số 194/2019/HS-ST).

Ngày 27/3/2020 chấp hành xong hình phạt tù trở vể địa phương cho đến ngày gây án.

Tiền sự: Không;

Tiền án: Có 03 tiền án.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 01/4/2021 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố H cho đến nay. Bị cáo có mặt.

- Bị hại:

1. Anh Phạm Trung K, sinh năm 1982; nơi cư trú: Số 18/386 đường P, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Tường L, sinh năm 1971; nơi cư trú: Số 33/205 đường B, phường P, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1984; nơi cư trú: Tổ 5, phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị Bảo V, sinh năm 1989; nơi cư trú: Số 25 đường A, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

3. Anh Phạm S, sinh năm 1979; nơi cư trú: Thôn T, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 28/12/2020, Đỗ Hồ Anh Quý đã 02 lần trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Huế. Cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 09 giờ 00 ngày 28/12/2020, Đỗ Hồ Anh Q đi bộ từ nhà ra trước siêu thị Big C Huế (Địa chỉ: 174 đường B, phường P, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế) thuê xe ôm do anh Phạm S (sinh năm 1979, trú tại: thôn T, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế) điều khiển để đến nhà bạn tại đường T, thành phố H chơi. Khi đi ngang số nhà 18/386 đường P, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế thì Q phát hiện cổng nhà không khóa, trong sân có 01 (Một) cái thang bằng kim loại nên Q nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Q nói anh S dừng xe lại, đợi Q đi vào nhà bà con có việc. Sau đó, Q đi vào số nhà 18/386 đường P, thấy nhà không có người nên lấy trộm 01 (Một) thang bằng kim loại, màu trắng, gồm 6 bậc, dạng thang gấp của anh Phạm Trung K (Sinh năm 1982) rồi vác ra ngoài. Q nói với anh S là thang của người bà con không dùng nữa nên nhờ Q đem đi bán và yêu cầu anh S chở về cửa hàng mua bán phế liệu tại kiệt 33 đường A, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế bán cho bà Nguyễn Thị H (Sinh năm 1984, trú tại: Tổ 5, phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế) với giá: 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Sau khi bán được cái thang, Q tiếp tục thuê anh S chở đến đường T tìm bạn nhưng không gặp nên quay về lại siêu thị Big C H.

Vụ thứ 2: Sau khi Q trả tiền xe ôm cho anh S thì đi bộ về nhà của mình. Khi đi ngang qua số nhà 33/205 đường B, phường P, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, Q thấy nhà anh Nguyễn Tường L (Sinh năm 1971) không đóng cửa, bên trong không có người, sát cửa hông có 01 (một) thang gấp bằng kim loại, màu trắng, gồm 10 bậc, dạng thang gấp nên Q đi vào lấy trộm thang vác đi bộ ra lại Siêu thị Big C H. Lúc này, Q thấy anh S vẫn đang ngồi chờ khách nên Q đến nói với anh S là thang của nhà bị hư nên đem đi bán và thuê anh S chở về tiệm mua bán phế liệu tại 25 đường A, A, thành phố H, Thừa Thiên Huế bán cho chị Nguyễn Thị Bảo V (Sinh năm 1989) với giá 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng). Số tiền bán được, Q dùng tiêu xài cá nhân hết.

*Vật chứng, tài liệu tạm giữ:

01 (Một) thang bằng kim loại, màu trắng, gồm 6 bậc, dạng thang gấp, kích thước cao 2m05, rộng 43cm, đã qua sử dụng;

01 (Một) thang gấp bằng kim loại, màu trắng, gồm 10 bậc, dạng thang gấp, kích thước cao 3 m, rộng 43cm, đã qua sử dụng;

01 (Một) xe mô tô hiệu Honda Wave, màu trắng, đen bạc, biển số: 75H1- 464.64, số máy JA39E0318685, số khung: 3909HY319965, xe đã qua sử dụng;

01 (Một) đĩa CD chứa dữ liệu trích từ Camera ghi lại vụ việc Đỗ Hồ Anh Q thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra tại số nhà 18/386 Phan Chu Trinh vào ngày 28/12/2020.

Theo kết luận định giá tài sản số 21 ngày 31/12/2020 và số 63 ngày 26/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự thành phố H kết luận: 01 (Một) cái thang (Loại thang gấp) bằng kim loại màu trắng, cao 2m05, rộng 43cm, tại thời điểm định giá 28/12/2020, có giá trị: 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng); 01 (Một) cái thang (Loại thang gấp) bằng kim loại màu trắng gồm 10 bậc, cao 3 m, rộng 43cm, tại thời điểm định giá 28/12/2020, có giá trị: 1.000.000 đồng (Một triệu đồng).

*Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã xử lý vật chứng:

- Trả lại cho chủ sở hữu là anh Phạm Trung K 01 (Một) cái thang bằng kim loại, màu trắng, gồm 6 bậc, dạng thang gấp;

- Trả lại cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Tường L 01 (Một) cái thang gấp bằng kim loại, màu trắng, gồm 10 bậc, dạng thang gấp;

- Trả lại cho chủ sở hữu là anh Phạm S 01 (Một) xe mô tô hiệu Honda Wave, màu trắng, đen, bạc, biển số: 75H1-464.64.

- Tiếp tục lưu giữ hồ sơ vụ án 01 (Một) đĩa CD chứa dữ liệu trích xuất từ Camera ghi lại vụ việc Đỗ Hồ Anh Q thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra tại số nhà 18/386 đường P vào ngày 28/12/2020 để phục vụ truy tố, xét xử.

* Về trách nhiệm dân sự: Anh Phạm Trung K và anh Nguyễn Tường L đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Chị Nguyễn Thị H và chị Nguyễn Thị Bảo V không yêu cầu bị cáo Quý bồi thường thiệt hại.

Đối với chị Nguyễn Thị H và chị Nguyễn Thị Bảo V là những người đã mua tài sản của Quý; anh Phạm S là người được Q thuê chở đi tiêu thụ 02 cái thang nhưng họ đều không biết các tài sản nói trên là do Q phạm tội mà có nên không xem xét xử lý về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Tại bản cáo trạng số: 226/CT-VKS-HS ngày 27/5/2021 đã truy tố bị cáo Đỗ Hồ Anh Q (Tên gọi khác: U) về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H vẫn giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đỗ Hồ Anh Q (Tên gọi khác: U) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt Đỗ Hồ Anh Q (Tên gọi khác: U) từ 08 (Tám) tháng đến 10 (Mười) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giam 01/4/2021.

* Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã ra quyết định xử lý vật chứng: Trả lại cho anh Phạm Trung K 01 (Một) cái thang bằng kim loại, màu trắng, gồm 6 bậc, dạng thang gấp; trả lại cho anh Nguyễn Tường L 01 (Một) cái thang gấp bằng kim loại, màu trắng, gồm 10 bậc, dạng thang gấp; trả lại cho anh Phạm S 01 (Một) chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave, màu trắng, đen, bạc, biển số: 75H1-464.64. Anh K, anh L đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì thêm, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Tiếp tục lưu giữ tại hồ sơ vụ án 01 (Một) đĩa CD chứa dữ liệu trích xuất từ Camera ghi lại vụ việc Đỗ Hồ Anh Q thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra tại số nhà 18/386 đường P, phường A, thành phố H vào ngày 28/12/2020 để phục vụ công tác xét xử.

* Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị H và chị Nguyễn Thị Bảo V không yêu cầu bị cáo Đỗ Hồ Anh Q bồi thường lại số tiền 700.000 đồng mà chị Hồng, chị Vy đã mua 02 cái thang của bị cáo, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên buộc bị cáo Đỗ Hồ Anh Q (Tên gọi khác: U) phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đỗ Hồ Anh Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và các chứng cứ khác được thu thập tại hồ sơ vụ án, quá trình xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa đã làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận:

Vào ngày 28/12/2020, Đỗ Hồ Anh Q đã lén lút chiếm đoạt của anh Phạm Trung K ở 18/386 đường P, phường A, thành phố H 01 (Một) cái thang gấp bằng kim loại có giá trị: 800.000 đồng và chiếm đoạt của anh Nguyễn Tường L ở 33/205 đường B, phường P, thành phố H 01 (Một) cái thang gấp bằng kim loại có giá trị:

1.000.000 đồng. Tổng trị giá tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt là: 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng). Mặc dù tài sản mà bị cáo chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng, nhưng về nhân thân bị cáo có 03 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, mới ra tù chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, nên phạm vào điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Với hành vi nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố bị cáo Đỗ Hồ Anh Q (Tên gọi khác: U) về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng do bản chất lười lao động muốn hưởng thụ bằng mồ hôi và sức lao động của người khác mới dẫn đến phạm tội. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang cho quần chúng nhân dân. Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị Tòa án xử phạt tù; lẽ ra khi ra tù bị cáo phải lấy đó làm bài học cho bản thân để phấn đấu trở thành một công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, nhưng vẫn không từ bỏ con đường phạm tội của mình. Bởi vậy, đối với Đỗ Hồ Anh Q cần xét xử nghiêm và cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo đồng thời răn đe và phòng ngừa tội phạm. Khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

* Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã ra quyết định xử lý vật chứng: Trả lại cho anh Phạm Trung K 01 (Một) cái thang bằng kim loại, màu trắng, gồm 6 bậc, dạng thang gấp; trả lại cho anh Nguyễn Tường L 01 (Một) cái thang bằng kim loại, màu trắng, gồm 10 bậc, dạng thang gấp; trả lại cho anh Phạm S 01 (Một) chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave, màu trắng, đen, bạc, biển số: 75H1-464.64. Anh K, anh L đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với 01 (Một) đĩa CD chứa dữ liệu trích xuất từ Camera ghi lại vụ việc Đỗ Hồ Anh Q thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra tại số nhà 18/386 đường P, phường A, thành phố H vào ngày 28/12/2020, cần tiếp tục lưu giữ tại hồ sơ vụ án.

* Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu bị cáo Đỗ Hồ Anh Q bồi thường cho chị số tiền 300.000 đồng và chị Nguyễn Thị Bảo V không yêu cầu bị cáo Đỗ Hồ Anh Q bồi thường số tiền 400.000 đồng mà chị H, chị V đã mua 02 cái thang của bị cáo, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Đỗ Hồ Anh Q (Tên gọi khác: U) phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Hồ Anh Q (Tên gọi khác: U) phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

- Xử phạt Đỗ Hồ Anh Q (Tên gọi khác: U) 07 (Bảy) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giam 01/4/2021.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Đỗ Hồ Anh Q (Tên gọi khác: ) phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

356
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 148/2021/HS-ST ngày 21/07/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:148/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về