Bản án 148/2021/HSPT ngày 09/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 148/2021/HSPT NGÀY 09/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 119/2021/HSPT ngày 22/4/2021, đối với bị cáo Võ Anh T. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HSST ngày 16/03/2021, của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

* Bị cáo có kháng cáo: Võ Anh T; sinh năm 1982 tại tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Tổ dân phố 5, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Quang V (đã chết) và con bà Lê Thị L (không rõ năm sinh); Bị cáo chưa có vợ con; Tiền sự, tiền án: Không;

Nhân thân:

- Ngày 01/3/2007, Võ Anh T bị Công an phường Thành Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 29301 phạt cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản;

- Ngày 15/8/2007, bị Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 06 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 19/2007/HSST. Tháng 02/2008 chấp hành xong Bản án;

- Ngày 12/6/2009, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm 06 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 207/2009/HSST. Ngày 05/6/2010 chấp hành xong Bản án (đã được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt ngày 02/12/2020 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Anh Nguyễn Thành T1, sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn Hòa An, xã Ea Nuôl, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 13/4/2020 Võ Anh T, nhờ một người đàn ông tên L1 không rõ nhân thân lai lịch chở mình bằng xe máy đến nhà mẹ kế là bà Nguyễn Thị B, trú tại thôn Đ, xã E, huyện B để chơi. Tại đây T biết tin anh Nguyễn Thành T1 mới đi làm ăn ở xa về và trước đó T1 còn nợ tiền của mình. Với lý do trên nên T muốn đến thăm chơi và đòi tiền nợ, T nhờ L1 dùng xe mô tô nhãn hiệu AB màu đỏ không rõ biển số là xe của L1 chở xuống nhà T1, nhưng trước khi đi T không gọi điện hay thông báo trước gì cho anh. Khi cả hai đến nhà T1, L1 ngồi ngoài sân chờ còn T đi vào nhà tìm anh T1, thấy nhà anh T1 mở cửa nhưng không có ai ở nhà, T đi xung quanh rồi qua xưởng mộc ngay sát nhà ở của anhT1 kiểm tra, khi vào trong xưởng T thấy có một chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus, vỏ màu đen đặt trên mặt bàn trong khuôn viên xưởng, quan sát xung quanh không có ai T liền lấy trộm điện thoại rồi cầm trên tay sau đó đi ra ngoài nhờ L1 chở về phòng trọ của mình tại tổ dân phố 5, phường T, thành phố B cất giấu tài sản. Anh T1 đang làm việc ngoài vườn nghe có tiếng xe máy trước nhà nên chạy vào nhà để kiểm tra thì phát hiện chiếc điện thoại di động để trên mặt bàn trong khuôn viên xưởng mình đã bị mất trộm. Anh T1 đã trích xuất camera an ninh của gia đình, phát hiện hình ảnh Võ Anh T đã trộm cắp tài sản của mình nên trình báo vụ việc đến cơ quan công an.

Ngày 15/4/2020 Võ Anh T nhận biết hành vi trộm cắp tài sản của mình đã bị anh T1 phát hiện, nên T đã gặp anh Trần Ngọc H, trú tại thôn H, xã E để đưa cho anh H chiếc điện thoại trên và nhờ anh Hòa giúp trả lại chiếc điện thoại cho anhT1, anh H đã đồng ý nhận và sau đó đã giao lại chiếc điện thoại di động trên cho anh T1.

Tại Bản kết luận số 15/KL-HĐĐGTS ngày 07/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Buôn Đôn xác định giá trị còn lại của 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 7 PLUS, số máy: MNQW2LL/A, số Sêri: DX3Z22LTHG04, số EMEI: 355345089938633 của anh Nguyễn Thành T1 tại thời điểm bị mất trộm ngày 13/4/2020 là 6.500.000 đồng (sáu triệu năm trăm ngàn đồng)

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HSST ngày 16/3/2021, của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Võ Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Võ Anh T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 02/12/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng; án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 24/3/2021, bị cáo Võ Anh T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm đã nêu trên.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là không có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo - Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, bào chữa gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 15 giờ 00 ngày 13/4/2020, tại khu nhà xưởng của anh Nguyễn Thành T1 thuộc thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk bị cáo Võ Anh T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 Plus (giá trị là 6.500.000 đồng) của anh Nguyễn Thành T1. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Võ Anh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, thì thấy: Mức hình phạt 01 năm 03 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là hoàn toàn thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi bị cáo đã thực hiện, bởi lẽ: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến an ninh trật tự tại địa phương mà còn xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người bị hại. Mặc dù trước đó bị cáo đã bị kết án 02 lần về hành vi trộm cắp tài sản, nhưng sau khi chấp hành xong bản án bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm để tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục phạm tội, cho thấy ý thức xem thường pháp luật của bị cáo. Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng, tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo mà cần giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Anh T - Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HSST ngày 16/3/2021, của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

[1] Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Võ Anh T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 02/12/2020.

[2] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Võ Anh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

328
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 148/2021/HSPT ngày 09/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:148/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về