Bản án 148/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 148/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

 Trong ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành – tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 141/2020/HSST ngày 04 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

Trần Đức M – tên gọi khác: không; sinh ngày 02/01/195; Nơi ĐKHKTT: Xóm Lũy – xã M – Yên Thành – Nghệ An; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 7/10; Chức vụ Đảng, đoàn thể: không; Con ông Trần Đình L – đã chết, con bà Phan Thị Th– đã chết; Vợ Lê Thị N sinh năm 1960 và có 05 con, lớn nhất sinh năm 1981, nhỏ nhất sinh năm 1992; tiền án: không; tiền sự: ngày 27/7/2020 bị Công an xã L, Yên Thành ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, đã nộp phạt xong ngày 28/7/2020. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/9/2020 đến ngày 03/10/2020 được tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

Hoàng Trung T – tên gọi khác: không; sinh ngày 07/7/197; Nơi ĐKHKTT: Xóm Phú Sơn – xã L – Yên Thành – Nghệ An; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 9/12; con ông Hoàng Trung T sinh năm 1950, con bà Trần Thị M, đã chết; vợ: Nguyễn Thị M, sinh năm 1977 và có 03 con, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: chưa. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/9/2020 đến ngày 03/10/2020 được tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

Hà Danh T – tên gọi khác: không; Sinh ngày 08/6/196; Nơi ĐKHKTT: Xóm 7 – xã T – Yên Thành – Nghệ An; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 4/10; con ông: Hà Danh L – đã chết, con bà Phạm Thị Ch – sinh năm 1939; Vợ Trần Thị Kh sinh năm 196 và có 06 con, lớn nhất sinh năm 1986, nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/9/2020 đến ngày 03/10/2020 được tại ngoại. Có mặt.

Trần Nguyên H – tên gọi khác: không; Sinh ngày 15/7/195; Nơi ĐKHKTT: Xóm Làng Cầu – xã L – Yên Thành– Nghệ An; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 7/10; chức vụ Đảng, đoàn thể: Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (đang bị đình chỉ sinh hoạt cấp ủy); con ông Trần Nguyên S – đã chết và bà Vũ Thị C – đã chết; Vợ Nguyễn Thị Ng sinh năm 1961 và có 05 con, lớn nhất sinh năm 1982, nhỏ nhất sinh năm 1992; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/9/2020 đến ngày 03/10/2020 được tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo Trần Nguyên H, Hà Danh T, Trần Đức M, Hoàng Trung T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 30 tháng 9 năm 2020, Hà Danh T, Hoàng Trung T, Trần Đức M đến nhà Trần Nguyên H ở xóm Làng Cầu, xã L, Yên Thành chơi, uống nước. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày thì Trần Nguyên H, Hoàng Trung T, Trần Đức M, Hà Danh T rủ nhau đánh bài phỏm được thua bằng tiền. Sau đó các đối tượng này đi lên tầng 2 nhà H để đánh bạc. Tại đây các bị cáo ngồi trên 01 chiếc chiếu cói đã có sẵn rồi dùng 02 bộ bài tú lơ khơ loại 52 quân gồm 01 bộ màu đỏ và 01 bộ màu xanh do T đã mua trước đó. Cách thức và quy định của các bị cáo như sau: Sử dụng bộ bài 52 quân, chia cho mỗi người 09 quân, riêng người đánh đầu tiên được chia 10 quân, quy định ai ít điểm nhất trong ván bài đó sẽ là người T, trường hợp có 01 người ù tức có 03 phỏm thì 03 người còn lại phải trả cho người đó mỗi người 250.000đ, nếu có người bị cháy tức là không có phỏm thì người cháy phải trả cho người về nhất 200.000đ, còn đối với những ván bài bình thường thì người cao điểm nhất là về út phải trả cho người nhất 150.000đ, người cao điểm thứ ba trả cho người về nhất 100.000đ, người cao điểm thứ hai trả cho người về nhất 50.000đ. Đến khoảng 15 giờ 30 phút giờ cùng ngày khi bốn đối tượng này đang say sưa đánh bạc thì bị lực lượng công an huyện Yên Thành vào bắt quả tang thu giữ tại chiếu bạc các đối tượng ngồi đánh bạc số tiền 13.500.000đ và 02 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, 01 chiếc chiếu cói màu đỏ, vàng. Thu giữ ở túi quần sau bên phải của Trần Đức M 12.000.000đ. Sau khi bị bắt, lực lượng chức năng đã đưa cả 04 bị cáo về trụ sở Công an làm rõ sự việc. Tại cơ quan điều tra các bị cáo khai sử dụng số tiền đánh bạc như sau: Hoàng Trung T sử dụng 4.500.000đ; Trần Đức M sử dụng 3.300.000đ; Trần Nguyên H sử dụng 2.700.000đ; Hà Danh T sử dụng 3.000.000đ. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 13.500.000đ. Đối với số tiền 12.000.000đ thu giữ của Trần Đức M cơ quan điều tra đã làm rõ không liên quan đến việc đánh bạc nên đã làm thủ tục trả lại cho bị cáo số tiền này.

Cáo trạng số 03/VKS – HS ngày 02 tháng 12 năm 2020 của VKSND huyện Yên Thành đã truy tố các bị cáo Trần Nguyên H, Hà Danh T, Hoàng Trung T và Trần Đức M về tội đánh bạc và đề nghị Hội đồng xét xử xử lý đối với các bị cáo như sau: xử phạt bị cáo Trần Đức M từ 18 đến 21 tháng cải tạo không giam giữ; xử phạt các bị cáo Hà Danh T, Hoàng Trung T, Trần Nguyên H mỗi bị cáo từ 15 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ thu nhập mỗi bị cáo từ 300.000đ đến 500.000đ một tháng trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Tịch thu tiêu hủy công cụ các bị cáo thực hiện tội phạm. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 13.500.000đ thu của các bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, các bị cáo đều thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra lại tại phiên tòa. Từ đó xác định được vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 30 tháng 9 năm 2020 Trần Nguyên H, Hoàng Trung T, Hà Danh T, Trần Đức M rủ nhau đánh bạc ngay tại nhà của Trần Nguyên H thuộc xóm Làng Cầu, xã L, Huyện Yên Thành. Quá trình đánh bạc các đối tượng sử dụng số tiền đánh bạc như sau: Hoàng Trung T sử dụng 4.500.000đ; Trần Đức M sử dụng 3.300.000đ; Trần Nguyên H sử dụng 2.700.000đ; Hà Danh T sử dụng 3.000.000đ. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 13.500.000đ. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận các bị cáo Trần Nguyên H, Trần Đức M, Hoàng Trung T, Hà Danh T phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 điều 321 BLHS như cáo trạng quy kết là đúng người, đúng tội.

Xét vị trí, vai trò của từng bị cáo trong vụ án thì thấy rằng: Trong vụ án này các bị cáo phạm tội giản đơn không có người rủ rê. Tuy nhiên do bị cáo Trần Đức M trước đó đã bị xử lý hành chính về hành vi đánh bạc nên bị cáo phải chịu trách nhiệm chính, tiếp đến là bị cáo Hoàng Trung T tham gia với số tiền nhiều nhất, chuẩn bị công cụ phạm tội, tiếp đến bị cáo Hà Danh T và cuối cùng là bị cáo Trần Nguyên H.

Xét tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Xét tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại điểm i, s khoản 1 điều 51 BLHS. Bị cáo Trần Đức M có công với nước được tặng thưởng bằng khen, được chủ tịch nước tặng huân chương, bị cáo có anh trai là liệt sỹ và hiện nay bị cáo là người thờ cúng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, i, v, x khoản 1 điều 51 BLHS.

Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt chưa ai có tiền án.

Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự trên cơ sở cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra, kết hợp với việc xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Thấy chưa cần thiết phải cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội vì đa số các bị cáo là người cao tuổi, có nơi cư trú ổn định vì vậy cho bị cáo Trần Đức M, Hoàng Trung T, Hà Danh T phạt cải tạo không giam giữ, khấu trừ thu nhập 10% với mức thu nhập bình quân 05 triệu đồng/tháng trong thời gian cải tạo không giam giữ, giao về cho địa phương quản lý, giáo dục cũng đủ nghiêm. Đối với bị cáo Trần Nguyên H sử dụng số tiền phạm tội ít nhất nên chỉ cần phạt tiền cũng đủ điều kiện cải tạo giáo dục đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Đối với 02 bộ bài tú lơ khơ 52 quân trong đó có 01 bộ màu đỏ và 01 bộ màu xanh; 01 chiếc chiếu cói màu vàng, đỏ là công cụ các bị cáo sử dụng để đánh bạc thấy không còn giá trị cần tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 13.500.000đ là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc cần tịch thu sung quỹ Nhà Nước.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Miễn án phí cho các bị cáo Trần Đức M và Trần Nguyên H do là người cao tuổi.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố các bị cáo Trần Nguyên H, Trần Đức M, Hà Danh T, Hoàng Trung T phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 điều 321; điểm i, s, x, v khoản 1 điều 51; điều 36 BLHS đối với bị cáo Trần Đức M xử phạt bị cáo Trần Đức M 15 (mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ nhưng được trừ 03 ngày tạm giữ trước đó, bị cáo còn phải chấp hành 14 (mười bốn) tháng 21 (hai mốt) ngày cải tạo không giam giữ, khấu trừ thu nhập bị cáo 500.000đ/ tháng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan được giao quản lý giáo dục nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Trần Đức M về cho UBND xã M, huyện Yên Thành giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Áp dụng khoản 1 điều 321; điểm i, s khoản 1 điều 51; điều 36 BLHS, đối với các bị cáo Hoàng Trung T, Hà Danh T. Xử phạt bị cáo Hoàng Trung T 15 (mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ nhưng được trừ 03 ngày tạm giữ trước đó, bị cáo còn phải chấp hành 14 (mười bốn) tháng 21 (hai mốt) ngày cải tạo không giam giữ, khấu trừ thu nhập bị cáo 500.000đ/ tháng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan được giao quản lý giáo dục nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Hoàng Trung T về cho UBND xã L, huyện Yên Thành giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Xử phạt bị cáo Hà Danh T 14 (mười bốn) tháng cải tạo không giam giữ nhưng được trừ 03 ngày tạm giữ trước đó, bị cáo còn phải chấp hành 13 (mười ba) tháng 21 (hai mốt) ngày cải tạo không giam giữ, khấu trừ thu nhập bị cáo 500.000đ/ tháng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan được giao quản lý giáo dục nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Hà Danh T về cho UBND xã T, huyện Yên Thành giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Áp dụng khoản 1 điều 321, điểm i, s khoản 1 điều 51, điều 35, điều 54 Bộ luật hình sự đối với Trần Nguyên H, xử phạt bị cáo Trần Nguyên H 15.000.000đ (mười lăm) triệu đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi suất trên số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 2 điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài tú lơ khơ loại 52 quân trong đó có 01 bộ màu xanh, 01 bộ màu đỏ; 01 chiếc chiếu cói màu vàng, đỏ đã qua sử dụng. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 13.500.000đ (mười ba triệu năm trăm nghìn đồng). Đặc điểm các vật chứng có tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Công an và chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành ngày 04 tháng 12 năm 2020.

Về án phí: Áp dụng điều 136 BLTTHS; Nghị quyết về án phí, lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Hà Danh T, Hoàng Trung T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí HSST. Miễn án phí HSST cho các bị cáo Trần Đức M và Trần Nguyên H do các bị cáo là người cao tuổi, bị cáo M là thân nhân của liệt sỹ.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo, báo cho các bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 148/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:148/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về