TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 148/2020/HS-ST NGÀY 27/08/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27/8/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình, Tp Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 142/2020/TLHS-ST ngày 27/7/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 240/2020/QĐXXST-HS ngày 01/8/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 116/2020/QĐ-HPT ngày 14/8/2020 đối với bị cáo:
LÊ THỊ HÀ T- sinh năm: 1985; HKTT: tôt 19 phường D, quận H, H; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Bá Việt và bà Phạm Thị Thu, có chồng là Phạm Anh và có 01 con sinh năm 2005; Theo lý lịch địa phương cung cấp và DCB số 098 ngày 18/7/2019 tại công an quận Ba Đình; Tiền án, tiền sự: có 01 tiền án: Ngày 19/9/2014, TAND quận Tây Hồ, Hà Nội xử phạt 48 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, ra trại ngày 01/12/2016. Đã thi hành án phí ngày 19/12/2014 (đã được xóa án tích); Tạm giữ, tạm giam: 17/7/2019 (có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20h00 ngày 03/07/2019, tại trước cửa số nhà 350 đường Bưởi, phường Vĩnh Phúc, Ba Đình, Hà Nội, Tổ công tác Đội CSĐTTP về ma túy - Công an quận Ba Đình tiến hành kiểm tra hành chính đối với Nguyễn Văn Đ (sinh năm 1975, Chỗ ở: Phòng 401 Chung cư mini số 350 Đường Bưởi, phường Vĩnh Phúc, Ba Đình, Hà Nội) do có biểu hiện nghi vấn. Qua kiểm tra, phát hiện trong túi quần sau bên trái của Đ có 10 viên nén hình tròn màu xanh nhạt bề mặt in chữ “LV”. (BL9-10, BL13) Tổ công tác đã đưa Đ cùng tang vật về Công an phường Vĩnh Phúc làm việc. Ngoài ra, Tổ công tác còn thu giữ của Nguyễn Văn Đ (BL12):- 01 ĐTDĐ Samsung màu xanh đen, sim số 0926395989. - 30.500.000 (ba mươi triệu năm trăm nghìn đồng) Khoảng 20h30 cùng ngày, Tổ công tác đã tiến hành khám xét nơi ở của Nguyễn Văn Đ tại P.401 số nhà 350 đường Bưởi, Ba Đình, Hà Nội thu giữ:
- 01 túi nilon kích thước 5x7 cm bên trong có 25 viên nén màu đỏ, một số mảnh vụn màu đỏ và 02 viên nén màu xanh trong tủ đựng quần áo.- 01 ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO màu tím đen đã qua sử dụng không có sim tại dưới gầm kệ để túi xách.- 01 cân điện tử để trên kệ tủ sách (BL32-34).
Quá trình khám xét nơi ở của Đ , có mặt Nguyễn Ánh Hồng - Sinh năm: 1994, HKTT: P206 nhà C16 Khu tập thể T Xuân, phường T Xuân Bắc, T Xuân, Hà Nội (là bạn xã hội của Đ ) đang ở trong Phòng 401. Cơ quan điều tra đã thu giữ của Nguyễn Ánh Hồng (BL180) 01 ví cầm tay màu hồng bên ngoài có chữ “Moschino” bên trong có: 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng số sim 0971258558 và 01 điện thoại màu đen nhãn hiệu Nokia có số sim 0868890237.
Sau khi bị bắt quả tang, đối tượng Nguyễn Văn Đ đã không ký vào các biên bản tố tụng. Đến 23h ngày 03/07/2019 thì Đ có biểu hiện sùi bọt mép và nôn ra 01 túi nilon đựng chất màu hồng và 01 túi nilon đựng chất dạng tinh thể màu trắng. Công an phường Vĩnh Phúc đã đưa Đ đi cấp cứu tại Bệnh viện 354 và được bác sĩ chỉ định uống nhiều nước để nôn ra các chất trong dạ dày, nên Công an phường Vĩnh Phúc đã đưa Đ về trụ sở làm việc. Đến khoảng 0h00 ngày 04/07/2019, thấy Đ có biểu hiện tím tái, mép bên phải có bọt chảy ra, Công an phường Vĩnh Phúc tiếp tục đưa Đ vào Bệnh viện 354, nhưng khi đến nơi thì Đ đã tử vong.
Kết luận giám định số 4426/KLGĐ-PC09 ngày 12/07/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: “10 viên nén hình tròn màu xanh nhạt bề mặt in chữ “LV” thu giữ của Nguyễn Văn Đ là Methamphetamine, khối lượng 3,386 gam” (BL18).
Kết luận giám định số 4427/KLGĐ-PC09 ngày 12/07/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận tang vật thu giữ tại nơi ở của Nguyễn Văn Đ (BL39): “- 25 viên nén và các mảnh màu đỏ, tổng khối lượng là 2,655 gam là ma túy loại Methamphetamine; - 02 viên nén màu xanh, tổng khối lượng là 0,187 gam là ma túy loại Methamphetamine;- 01 cân điện tử màu bạc dính ma túy loại Methamphetamine”.
Kết luận giám định số 3802/CT09-TT2 ngày 13/07/2019 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận về các chất trong 2 túi nilon do Đ nôn ra:
“- Mẫu chất màu hồng là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 9,425 gam;- Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,601 gam” (BL323).
Tại biên bản phạm tội quả tang Nguyễn Văn Đ khai: khoảng 19h ngày 03/07/2019 Đ đến nhà bạn gái là Lê Thị Hà T tại Phòng 401 Chung cư mini số 350 Đường Bưởi, phường Vĩnh Phúc, Ba Đình, Hà Nội, gặp T . Đ sử dụng ma túy đá cùng T , sử dụng xong thì có người gọi điện cho Đ hỏi 10 viên ma túy, Đ nói lại với T , T lấy từ túi xách màu đen ra đưa cho Đ 01 túi nilon bên trong đựng 10 viên ma túy tổng hợp, để đi giao cho khách. Đ cất ma túy vào túi quần sau bên trái đi xuống trước cửa số nhà 350 đường Bưởi thì bị bắt quả tang như trên. Tuy nhiên, Đ không ký vào biên bản quả tang này (BL 9-11).
Về đối tượng Lê Thị Hà T , lợi dụng sơ hở đã bỏ trốn, đến ngày 17/07/2019, Công an quận Ba Đình đã bắt khẩn cấp đối với Lê Thị Hà T và thu giữ của T : 01 ví giả da cầm tay màu đen đã cũ có đính kim loại màu trắng trong có: 01 ĐTDĐ Samsung Galaxy A8 chứa sim 1: 0961077739, sim 2: 0867735543; 01 điện thoại Samsung S10 chứa sim 1: 0961063385, sim 2: 0928395989; 01 ví giả da nhỏ màu đen trong có 2.200.000 đồng (BL143).
* Về lời khai của Lê Thị Hà T Tại lời khai ban đầu Lê Thị Hà T khai: T và Đ chung sống như vợ chồng tại phòng 401 Chung cư mini số 350 Đường Bưởi, Đ cho T sử dụng ma túy và khoảng 1 tháng trở lại đây T bán ma túy bằng hình thức giao dịch qua điện thoại khi được Đ yêu cầu. Khoảng 19h ngày 03/07/2019, tại phòng 401 Chung cư mini số 350 Đường Bưởi, T đang cùng Đ và Hồng sử dụng ma túy thì có người gọi đến điện thoại của Đ theo số 0926395989, Đ bảo T cầm điện thoại nghe máy hộ Đ . T nghe máy thì có người gọi là đàn ông hỏi mua 100 viên hồng phiến và 5 gam ma túy đá. T bảo anh ta giữ máy và hỏi Đ , Đ nói 100 viên giá 4.000.000 đồng, 5 gam đá giá 2.000.000 đồng. T báo lại người mua, anh ta đồng ý và T hẹn anh ta giao dịch tại chung cư 350 đường Bưởi. Đ lúc đó lấy ma túy từ túi quần bên trái phía trước đang mặc ra kiểm, T bảo đưa ma túy để T đi, nhưng Đ bảo để Đ đi giao dịch. Đ đi xuống một lúc thì lực lượng công an lên Chung cư mini khám xét, lợi dụng sơ hở T đã bỏ trốn, sống lang thang. T không biết gì về số ma túy thu giữ tại P401. T có tin nhắn mua bán ma túy với đối tượng Thu Anh (BL229-272), có cuộc gọi của đối tượng Thu Anh thời điểm lúc 19h51 ngày 03/07/2019 (BL145). Đến ngày 17/07/2019 thì T bị Công an quận Ba Đình bắt khẩn cấp.
Ngày 26/07/2019, T thay đổi lời khai, không thừa nhận đã giúp Đ bán ma túy bằng cách giao dịch qua điện thoại khoảng 1 tháng gần đây, mà chỉ nhận giúp Đ bán ma túy 1 lần vào ngày 03/07/2019. Ngoài ra, T khai không trao đổi, mua bán ma túy gì với Thu Anh (BL111-139).
Ngày 20/02/2020, Lê Thị Hà T tiếp tục thay đổi lời khai, không thừa nhận việc giúp Đ nghe điện thoại và báo giá, số lượng ma túy cho khách. T chỉ thừa nhận: lúc 19h00 ngày 03/07/2019 khi có người gọi đến máy của Đ , T nói lại với Đ và Đ bảo T mở loa ngoài cho Đ nghe. Sau khi T mở loa ngoài thì Đ là người tự trao đổi giao dịch với khách về giá cả, số lượng ma túy và địa điểm giao ma túy (BL290-293).
Ngày 27/02/2020 và ngày 28/02/2020, Cơ quan điều tra phối hợp cùng Viện KSND quận Ba Đình lấy lời khai Lê Thị Hà T (có người chứng kiến). Tại lần này, Lê Thị Hà T tiếp tục có sự thay đổi lời khai. T khai có cầm điện thoại mở loa ngoài cho Đ nghe, Đ có trao đổi với khách nhưng do sợ khách không nghe rõ nên T đã nói to vào điện thoại với khách về giá cả, số lượng ma túy (BL294-304).
* Nguyễn Ánh Hồng khai: Hồng thường giúp việc cho T , nên khoảng 18h ngày 03/07/2019 Hồng đi từ khu vực T Xuân đến nhà Lê Thị Hà T ở phòng 401 Chung cư mini số 350 đường Bưởi để dọn dẹp. Tại đây Hồng và T sử dụng ma túy bằng hình thức hút, rồi Đ đến và cùng sử dụng ma túy. Sau đó Hồng đi phơi quần áo thì thấy có điện thoại, Đ đưa cho T nói chuyện điện thoại. Tiếp đến Đ trao đổi và Hồng nghe thấy Đ nói với T : “Đưa đồ cho anh để anh đi cho”, T lấy túi mầu đen có đính hạt màu trắng bên cạnh dùng tay phải đưa cho Đ , Đ cúi xuống lấy từ túi của T ra và đếm cầm đi ra khỏi phòng (Hồng hiểu “đồ” ở đây là ma túy cũng như Đ và T vừa mua bán ma túy). Một lúc sau thì Tổ công tác đến kiểm tra thì Hồng không biết T đã bỏ đi từ lúc nào (BL156-172). Hồng đã nhận dạng được T và chiếc túi đen đính hạt màu trắng của T (BL 118-119; 177-179).
Quá trình điều tra, Lê Thị Hà T nhiều lần thay đổi lời khai. Lời khai của bị can T còn mâu thuẫn với lời khai của Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Ánh Hồng; chưa phù hợp với một số chứng cứ, tài liệu khác trong hồ sơ. Tuy nhiên, căn cứ vào những vật chứng thu được và sự kiện bắt quả tang, thu giữ ma túy trên người Đ , có đủ cơ sở khẳng định có việc mua bán ma túy diễn ra ngày 03/7/2019, trong đó T là đồng phạm với vai trò giúp sức cho Đ .
Đối với Nguyễn Văn Đ , xác định nguyên nhân tử vong là do bị ngộ độc chất ma túy, nên Cơ quan điều tra đã không khởi tố bị can để xử lý.
Đối với Nguyễn Ánh Hồng, quá trình điều tra không có căn cứ xác định Hồng đồng phạm với Đ và T trong việc mua bán ma túy nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Đối với đối tượng Thu Anh có nhắn tin nội dung trao đổi mua bán ma túy với Lê Thị Hà T . Quá trình điều tra, T thay đổi lời khai, không thừa nhận các nội dung tin nhắn đó là giao dịch mua bán ma túy, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được lai lịch của đối tượng Thu Anh nên không có cơ sở để xử lý (BL312).
Đối với đối tượng mua ma túy của Nguyễn Văn Đ , do Đ đã tử vong, T khai không quen biết đối tượng này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ.
Về nguồn gốc số ma túy thu tại Phòng 401, chung cư số 350 đường Bưởi là nơi ở của Lê Thị Hà T . Tại Cơ quan điều tra, T khai không biết số ma túy đó của ai. Nơi thu giữ ma túy là ngăn tủ của Nguyễn Văn Đ sử dụng, hiện Đ đã tử vong nên không có cơ sở buộc T phải chịu trách nhiệm về số ma túy này.
Tại bản cáo trạng số 141/CT-VKSBĐ ngày 15/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, bị cáo Lê Thị Hà T bị truy tố về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 2 điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Sau khi phân tích đánh giá chứng cứ, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38, điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Xử phạt: Lê Thị Hà T từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
Về vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ là vật cấm lưu hành và 01 cân điện tử. Tịch thu xung công 01 ĐTDĐ Samsung màu xanh đen sim số 0926.395898 thu giữ của Nguyễn Văn Đ do dùng để mua bán ma túy và 01 điện thoại Oppo thu giữ tại P401 nơi Đ và T ở. Trả lại cho gia đình bị cáo Đ số tiền 30.500.000 đồng vì không có cơ sở xác định liên quan hành vi phạm tội.
Trả lại cho Nguyễn Ánh Hồng 01 ví cầm tay màu hồng bên ngoài có chữ “Moschino” bên trong có 02 điện thoại đã qua sử dụng gồm 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng số sim 0971258558 (đã bị khóa vì chưa thành toán cước); 01 điện thoại màu đen nhãn hiệu Nokia có số sim 0868890237 thu giữ của Nguyễn Ánh Hồng do không liên quan đến hành vi phạm tội.
Trả lại cho Nguyễn Ngọc Hiệp 01 ví da màu nâu bên trong có 230.000 đồng và 01 tờ tiền 2USD, 01 đồng hồ kim loại màu trắng hiệu Tisot dây đồng hồ bằng kim loại màu trắng, 01 xe máy PCX màu đỏ mận BKS 29-T1 025.45, 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Honor số sim 035900412 thu giữ của Hiệp do không liên quan hành vi phạm tội.
Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 ví giả da cầm tay màu đen đã cũ có đính kim loại màu trắng bên ngoài, 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A8 màu trắng đã cũ, 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S10 màu trắng đã cũ và 01 ví giả da nhỏ màu đen đã cũ và số tiền 2.200.000 đồng thu giữ của bị cáo T vì có liên quan đến vụ án.
Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ba Đình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có có ý kiến hoặc không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, vật chứng thu giữ được và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ, đấy đủ cơ sở để kết luận:
Vào hồi 19h ngày 03/7/2020 tại Phòng 401 chung cư số 350 đường Bưởi, phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, bị cáo Lê Thị Hà T đã có hành vi giúp Nguyễn Văn Đ nghe điện thoại và thông báo lại với khách mua về số lượng và giá tiền 100 viên hồng phiến giá 4.000.000 đồng và 5 gram ma túy đá với giá 2.000.000 đồng. Sau đó Nguyễn Văn Đ soạn ma túy rồi tự cầm ma túy đi giao cho khách. Khoảng 20h cùng ngày, khi Đ mang ma túy đi giao cho khách thì bị công an bắt quả tang và thu giữ trong túi quần của Đ có 10 viên nén hình tròn máu xanh nhạt bề mặt in chữ LV là Methamphetamine có khối lượng là 3,386 gam. Đến 23h cùng ngày, Đ nôn ra 01 túi nilon chứa 9,425 gam Methamphetamine và 01 túi nilon chứa 0,601 gam Methamphetamine, sau đó Đ tử vong.
Xét vai trò của các bị cáo: Đ là kẻ chủ mưu, T giữ vai trò thứ yếu giúp sức cho Đ , giữa T và Đ không có sự phân công vai trò cụ thể, không có sự phân chia lợi nhuận nên trong vụ án này chỉ là đồng phạm giản đơn. Trong ngày 03/7/2020, T có nghe hộ điện thoại và giao dịch giúp Đ để mua bán số lượng ma túy là 100 viên hồng phiến với giá 4.000.000 đồng và 5 gam ma túy đá với giá 2.000 000 đồng. Khi Đ đi giao ma túy thì bị công an bắt giữ và thu giữ trong túi quần 10 viên nén màu xanh nhạt và số ma túy Đ nôn ra là 9,425 gam Methamphetamine, tổng số ma túy thu giữ được là 13,412gam Methamphetamine. Mặc dù các bị cáo trao đổi mua bán với số lượng lớn nhưng khi bị bắt giữ cơ quan công an chỉ thu giữ được tổng số lượng ma túy là 13,412gam Methamphetamine, do đó các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với khối lượng ma túy giao dịch mua bán là 13,412gam Methamphetamine. Vì Đ đã bị chết nên không khởi tố bị can, bị cáo T giữ vai trò đồng phạm trong vụ án trên nên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Mua bán trái phép chất ma túy với khối lượng ma túy là 13,412gam Methamphetamine, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bọ luật hình sự.
Đối với số ma túy thu giữ tại Phòng 401, chung cư số 350 đường Bưởi là nơi ở của Lê Thị Hà T có khối lượng 2,842 gam Methamphetamine. Tại Cơ quan điều tra, T khai không biết số ma túy đó của ai. Nơi thu giữ ma túy là ngăn tủ của Nguyễn Văn Đ sử dụng, hiện Đ đã tử vong nên không có cơ sở buộc T phải chịu trách nhiệm về số ma túy này.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội. Ma tuý là chất gây nghiện, chất hướng thần và là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi buôn bán trái phép chất ma túy của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội vì mục đích vụ lợi cá nhân [4] Về nhân thân: bị cáo có 01 tiền án năm 2014 về tội mua bán trái phép chất ma túy tính đến nay đã được xóa án tích nhưng thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, đã bị cơ quan nhà nước giáo dục mà không lấy đó làm bài học để trở thành người có ích cho xã hội mà chỉ vì mục đích vụ lợi cá nhân vẫn cố ý phạm tội.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015
[6] Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả hành vi của bị cáo mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.
[7] Về hình phạt bổ sung: Tài liệu có trong hồ sơ cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Đối với Nguyễn Văn Đ , xác định nguyên nhân tử vong là do bị ngộ độc chất ma túy, nên Cơ quan điều tra đã không khởi tố bị can để xử lý. Đối với Nguyễn Ánh Hồng, xác định không liên quan đến hành vi mua bán ma túy của Đ nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý. Đối với đối tượng Thu Anh có nhắn tin nội dung trao đổi mua bán ma túy với Lê Thị Hà T . Quá trình điều tra, T thay đổi lời khai, không thừa nhận các nội dung tin nhắn đó là giao dịch mua bán ma túy, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được lai lịch của đối tượng Thu Anh nên không có cơ sở để xử lý. Đối với đối tượng mua ma túy của Nguyễn Văn Đ , do Đ đã tử vong, T khai không quen biết đối tượng này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ.
[9] Về vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ là vật cấm lưu hành và 01 cân điện tử có dính ma túy.
- Trả lại cho Nguyễn Ánh Hồng 01 ví cầm tay màu hồng bên ngoài có chữ “Moschino”, 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng, 01 điện thoại di động Nokia màu đen vì không liên quan đến vụ án.
- Trả lại cho Nguyễn Ngọc Hiệp 01 ví da màu nâu, 01 đồng hồ dây kim loại màu trắng, hình tròn, hiệu Tissot, 01 xe máy nhãn hiệu Honda PCX màu đỏ mận BKS 29T-02545, 01 ĐTDĐ hiệu Honor và số tiền 230.000 đồng và 01 tờ tiền 2USD vì không liên quan đến vụ án;
- Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 ví giả da cầm tay màu đen đã cũ có đính kim loại màu trắng bên ngoài, 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A8 màu trắng đã cũ, 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S10 màu trắng đã cũ, 01 ví giả da nhỏ màu đen đã cũ và số tiền 2.200.000 đồng thu giữ của bị cáo T vì có liên quan đến hành vi phạm tội. Đối với 01 ĐTDĐ Samsung màu xanh đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo thu giữ của Đ , xét có liên quan đến việc giao dịch mua bán ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.
- Đối với số tiền 30.500.000 đồng (ba mươi triệu năm trăm ngàn đồng) thu giữ trong người của Đ , vì không có căn cứ xác định liên quan đến vụ án nên trả lại cho gia đình Đ .
[10] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm i khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Căn cứ Điều 106, Điều 299, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;
Tuyên bố bị cáo Lê Thị Hà T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”
Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Hà T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù , thời hạn tù tính ngày bắt tạm giữ, tạm giam 17/7/2019.
Về vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ gồm: 01 gói niêm phong bên trong có 3,386 gam Methamphetamine, 01 gói niêm phong bên trong có 2,842 gam Methamphetamine, 01 gói niêm phong bên trong có 10,026 gam Methamphetamine, và 01 cân điện tử.
- Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 ví giả da cầm tay màu đen đã cũ có đính kim loại màu trắng bên ngoài, 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A8 màu trắng đã cũ Imeil 1: 353002072510497, Imeil 2: 353003072510495, 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S10 màu trắng đã cũ Imeil 1: 356261104088313, Imeil 2: 356262104088322, 01 ví giả da nhỏ màu đen đã cũ, 01 ĐTDĐ Samsung màu xanh đen đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu tím đen đã qua sử dụng và số tiền 2.200.000 đồng (hai triệu hai trăm ngàn đồng).
- Trả lại cho Nguyễn Ánh Hồng (sinh năm: 1994; Địa chỉ: P206 nhà C16 T Xuân Bắc, quận T Xuân, Hà Nội) 01 ví cầm tay màu hồng bên ngoài có chữ “Moschino” bên trong có 02 điện thoại đã qua sử dụng gồm 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng số sim 0971258558 (đã bị khóa vì chưa thành toán cước); 01 điện thoại màu đen nhãn hiệu Nokia có số sim 0868890237 thu giữ của Nguyễn Ánh Hồng do không liên quan đến hành vi phạm tội.
- Trả lại cho Nguyễn Ngọc Hiệp (sinh năm: 1973; Địa chỉ: 22 ngõ 80 Phạm Ngọc Thạch, quận Đống Đa, Hà Nội) 01 ví da màu nâu, số tiền 230.000 đồng (hai trăm ba mươi ngàn đồng) và 01 tờ tiền 2 USD, 01 đồng hồ kim loại màu trắng hiệu Tisot dây đồng hồ bằng kim loại màu trắng, 01 xe máy PCX màu đỏ mận BKS 29-T1 025.45, 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Honor số sim 035900412 thu giữ của Hiệp do không liên quan hành vi phạm tội.
- Trả lại cho gia đình Nguyễn Văn Đ (địa chỉ: tổ 21 Nghĩa Đô, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội) số tiền 30.500.000 đồng (ba mươi triệu năm trăm ngàn đồng).
Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình đang quản lý theo biên bản bàn giao vật chứng số 185 ngày 26/8/2020 và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 14/8/2020 (số tiền 32.930.000 đồng), và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 10/8/2020 (số tiền 02 USD).
Bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 148/2020/HS-ST ngày 27/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 148/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về