TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 148/2020/HS-ST NGÀY 18/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 144/2020/TLST- HS ngày 19 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 152/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:
Lê Thanh B, sinh năm 1981 tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn 1 NK, xã BN, huyện BL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn S và bà Ngô Thị L; có vợ là: Hà Thị N, sinh năm 1983; con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 07/4/2020, Công an huyện BL, tỉnh Hà Nam ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”; nhân thân: Ngày 24/11/2011, Tòa án nhân dân huyện BL, tỉnh Hà Nam xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/10/2020 đến nay; hiện đang bị tạm giam tại trại Tạm giam Công an tỉnh Hà Nam. Có mặt.
* Bị hại: Chị Phạm Thị T, sinh năm 1995; Trú tại: Tổ dân phố QA, phường LH, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
* Người làm chứng:
- Bà Nguyễn Thị D; Vắng mặt.
- Chị Nguyễn Thị H; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 02/10/2020, Lê Thanh B điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen, BKS 17N2-0608 đi đến khu vực phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý với mục đích xem có ai sơ hở tài sản thì trộm cắp. Khoảng 17 giờ cùng ngày, B đi đến tổ dân phố Quang Ấm, phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý thì quan sát thấy bên phải đường phía trước cửa hàng tạp hóa của chị Nguyễn Thị H có 01 chiếc xe máy điện của chị Phạm Thị T không có người trông giữ. B nhìn thấy trong hốc để đồ bên trái xe máy điện có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS 64GB màu trắng, ốp màu hồng và tiền thì nảy sinh ý định trộm cắp. B dựng xe mô tô, đi bộ đến chỗ chiếc xe máy điện, cầm chiếc điện thoại và số tiền trong hốc để đồ rồi quay lại vị trí xe mô tô để bỏ chạy thì bị bà Nguyễn Thị D (mẹ chị T) đang ở bên trong cửa hàng tạp hóa phát hiện tri hô “Trộm, trộm”. Thấy vậy, B vứt lại chiếc điện thoại và số tiền vừa trộm cắp được xuống đường rồi bỏ chạy thì bị quần chúng nhân dân cùng lực lượng Công an phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý bắt giữ.
Thu giữ vật chứng gồm: Số tiền 1.206.000đ, được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS 64GB màu trắng, ốp màu hồng được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT02; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade BKS 17N2-0608.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 90/2020 ngày 08/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS 64GB màu trắng, ốp màu hồng, máy đã qua sử dụng giá còn 10.000.000 đồng.
* Về trách nhiệm dân sự: Chị Phạm Thị T không có yêu cầu, đề nghị gì về dân sự.
Tại bản cáo trạng số 147/CT-VKSPL ngày 19/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Lê Thanh B về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Thanh B từ 18 đến 24 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu về việc bồi thường trách nhiệm dân sự nên đề nghị không xem xét. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tách chiếc xe mô tô BKS 17N2-0608 chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm điều tra, giải quyết theo thẩm quyền.
- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối với người tham gia tố tụng là bị hại, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.
[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, biên bản ghi nhận hiện trường, sơ đồ hiện trường, kết luận định giá tài sản, lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 17 giờ ngày 02/10/2020, tại tổ dân phố Quang Ấm, phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý, lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản, Lê Thanh B đã lén lút trộm cắp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS 64GB màu trắng, ốp màu hồng trị giá 10.000.000đ và số tiền 1.206.000đ của chị Phạm Thị T thì bị quần chúng nhân dân và lực lượng Công an phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý bắt quả tang. Tổng giá trị tài sản mà B chiếm đoạt được là 11.206.000đ.
Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp pháp luật.
[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử phạt hành chính và bị Tòa án có thẩm quyền xử phạt tù cùng về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức mà tiếp tục phạm tội cùng loại, thể hiện sự coi thường pháp luật.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:
- Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, mà còn làm ảnh hưởng rất xấu đến tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Phủ Lý, gây tâm lý hoang mang, lo lắng và bức xúc trong nhân dân đối với việc quản lý tài sản, làm xã hội mất ổn định. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ.
- Hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, không có công việc và thu nhập ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì khác về việc bồi thường trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Xử lý vật chứng:
- Đối với số tiền 1.206.000đ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS 64GB màu trắng, ốp màu hồng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản hợp pháp của chị Phạm Thị T. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã trả lại số tiền và chiếc điện thoại trên cho chị T là phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade BKS 17N2-0608. Quá trình điều tra xác định là vật chứng trong vụ án “Trộm cắp tài sản” xảy ra ngày 06/11/2018 tại ngách 4, ngõ 379, đường Lương Thế Vinh, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm thụ lý giải quyết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã tách ra để bàn giao chiếc xe mô tô trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm điều tra, giải quyết theo thẩm quyền là phù hợp pháp luật, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo và bị hại thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.
Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[1] Tuyên bố bị cáo Lê Thanh B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
[2] Xử phạt bị cáo Lê Thanh B 21 (hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/10/2020.
[3] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Lê Thanh B phải nộp: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 148/2020/HS-ST ngày 18/12/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 148/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về