Bản án 148/2020/HS-PT ngày 11/05/2020 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 148/2020/HS-PT NGÀY 11/05/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 11 tháng 05 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2020/TLPT-HS ngày 02 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Phạm Văn A phạm tội “Giết người”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2019/HS-ST ngày 21 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang.

* Bị cáo có kháng cáo:

Phạm Văn A, sinh năm 1979; nơi cư trú: Thôn TC, xã YĐ, huyện SĐ, tỉnh Bắc Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm ruộng; văn hoá: 6/12; con ông: Phạm Văn A1, sinh năm 1959 và bà: Nguyễn Thị A2; có vợ: Trần Thị A3, sinh năm 1982; có 02 con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2008; gia đình có 3 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Tiền án, tiền sự: Chưa; bị cáo tại ngoại; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Thị Hải A4, Luật sư của Văn phòng Luật sư ĐS và cộng sự, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

* Người bị hại:

1. Anh Nguyễn Văn A5, sinh năm 1973.

2. Anh Nguyễn Văn A6, sinh năm 2001.

3. Chị Nguyễn Thị A7, sinh năm 1999.

Cùng trú tại: Thôn ĐC, xã YĐ, huyện SĐ, tỉnh Bắc Giang.

Anh A5 có mặt, chị Xiêm và anh A6 vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ ngày 30/4/2019, Phạm Văn A, đi xe máy BKS 98N2-2214 đem theo 01 túi nilon bên trong có 02 lọ thuốc diệt cỏ với mục đích thả xuống ao cá của gia đình anh Phạm Ngọc A8, sinh năm 1970 ở thôn ĐC, xã YĐ, huyện SĐ để bắt trộm cá. A khai mua thuốc diệt cỏ từ đầu năm 2019 mục đích sử dụng làm ruộng, vườn. Hai lọ mua thuốc diệt cỏ mà A đem theo có 01 lọ nhãn hiệu “ANTACO®GOLD 500EC” thể tích 90ml và 01 lọ nhãn hiệu “NIPHOSATE 480SL” thể tích 90ml. Ngoài ra, A còn đem theo 01 cuộn băng dính màu đen và 01 chiếc kim tiêm.

Theo A khai khi đi xe máy đến khu vực ngã 3 giữa Quốc lộ 31 và đường rẽ vào ao cá nhà anh A8 thì dừng lại. A sử dụng kim tiêm chọc thủng 04 lỗ trên lọ thuốc “NIPHOSATE 480SL” và cắm kim tiêm trên lọ thuốc “ANTACO®GOLD 500EC” rồi để nguyên kim tiêm ở đó. Sau đó, A dùng băng dính đen quấn dưới đáy mỗi lọ 01 viên đá cuội rồi đi xe máy đến khu vực ao cá nhà anh A8. Tuy nhiên do lúc đó trời mưa và nhà trông cá có bật điện sáng nên A không thả 02 lọ thuốc trừ cỏ để bắt trộm cá.

Lúc này, A nghĩ đến mâu thuẫn với anh Nguyễn Văn A5, sinh năm 1973, trú tại thôn ĐC, xã YĐ, huyện SĐ do nghi ngờ anh A5 quan hệ tình cảm bất chính với Trần Thị A3 là vợ A nên nảy sinh ý định thả 02 lọ thuốc trừ cỏ này xuống giếng nước sinh hoạt của gia đình anh A5 mục đích đầu độc gia đình anh A5 để trả thù. Thời điểm này, gia đình anh A5 có anh A5 và 02 con là Nguyễn Văn A6, sinh năm 2001 và Nguyễn Thị A7, sinh năm 1999 ở nhà, vợ anh A5 đi xuất khẩu lao động, còn con gái lớn của anh A5 đi làm công nhân ở xa. A đi xe máy đến gần cổng nhà anh A5 cách ao cá nhà anh A8 khoảng 100m thì dừng lại. A cầm 2 lọ thuốc diệt cỏ ném xuống giếng nhà anh A5 rồi đi xe máy về nhà.

Đến khoảng 15 giờ ngày 30/4/2019, anh Nguyễn Văn A6 bơm nước lên téc nước của gia đình để phục vụ sinh hoạt thì phát hiện nước giếng có màu và mùi khác thường đồng thời phát hiện thấy có 01 lọ nhựa nổi trên mặt giếng nên nghi ngờ bị đầu độc. Anh A6 điện thoại nói cho bố mình là anh A5 biết sự việc. Đến tối, ngày 30/4/2019, anh A5 sử dụng điện thoại di động chụp ảnh giếng nước và đăng hình ảnh lên mạng xã hội Facebook để thông báo việc bị người khác thả thuốc diệt cỏ xuống giếng nước. Ngày 02/5/2019, anh A5 sử dụng máy bơm, hút nước giếng thì phát hiện thêm 01 lọ thuốc bảo vệ thực vật khác nữa. Anh A5 đã thu mẫu nước vào trong 01 chai nhựa và thu 02 vỏ lọ thuốc diệt cỏ sau đó đến Công an huyện SĐ trình báo sự việc và giao nộp vật chứng.

Sau khi anh A5 đăng thông tin lên mạng xã hội Facebook thì Phạm Thị A9, sinh năm 2000 là con gái A đọc được thông tin nên nghi ngờ A là người thực hiện. Chị A9 gặng hỏi thì A thừa nhận đã ném thuốc trừ cỏ xuống giếng nhà anh A5. Chị A9 khuyên A5 ra đầu thú. Ngày 06/5/2019, A đến Công an huyện SĐ đầu thú, khai nhận hành vi ném 02 lọ thuốc trừ cỏ xuống giếng nước của gia đình anh A5. A cũng giao nộp cho Cơ quan điều tra 02 lọ thuốc trừ cỏ mà A đã mua ngoài chợ có cùng chủng loại với 02 lọ thuốc trừ cỏ đã ném xuống giếng nước nhà anh A5.

Khám nghiệm hiện trường: Nơi xảy ra sự việc tại vườn vải của gia đình anh Nguyễn Văn A5 ở thôn ĐC, xã YĐ, huyện SĐ, tỉnh Bắc Giang. Vị trí xảy ra sự việc là giếng nước nhà anh A5, phía Tây Nam giáp với cánh đồng thôn TC, phía Đông Bắc giáp với đường đi dân sinh của thôn ĐC, qua đường đi là vườn cây nhà anh A5.

Xem xét giếng nước thấy sâu 4,04m, mức nước sâu 2,13m, đường kính 0,76m, thành giếng cao 0,73m, rộng 01m, đặt ngang miệng giếng có 01 cây gỗ dài 1,1m, đường kính 3,2cm có buộc 01 dây thừng màu vàng treo 01 máy bơm nước, từ máy bơm có 01 ống nhựa đấu xuống giếng, đầu trên có 01 ống dẫn nước màu đen dài 1,2m, đường kính 3,5cm. Có 01 dây điện, một đầu có phích cắm, từ vị trí này có 01 ổ cắm ba dẫn vào nhà anh A5. Từ phía Đông Nam đầu ống nước dẫn vào máy bơm có 01 ống nước màu đen dẫn vào téc nước phía Đông Nam nhà anh A5. Xem xét thấy sàn giếng thấy có kích thước 3,5 x 2,2m, trên sàn giếng phía Đông Bắc 0,5m có 01 mảnh kim loại màu nâu, kích thước 1,1 x 01m.

Xem xét khu vực xung quanh và nhà anh A5 không phát hiện dấu vết nghi vấn nào khác. Quá trình khám nghiệm, Cơ quan điều tra có thu giữ 03 mẫu nước tại giếng nhà anh A5 (bút lục 63, 64).

Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định mẫu nước và 02 vỏ lọ nhựa do anh A5 giao nộp; 03 mẫu nước thu tại giếng nước của gia đình anh A5 khi khám nghiệm hiện trường và 02 lọ thuốc trừ cỏ do Phạm Văn A giao nộp.

Kết luận giám định số 2587/C09-P4 ngày 24/5/2019 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:

- Trong mẫu nước đựng trong chai nhựa nhãn hiệu “Sting” và 03 mẫu nước được trong chai nhựa nhãn hiệu “3A” gửi giám định đều tìm thấy Acetochlor.

- Trong 01 vỏ lọ màu trắng nhãn hiệu “VITHACO”, trên vỏ lọ có cắm 01 kim tiêm bằng kim loại gửi giám định và 01 lọ thuốc trừ cỏ nhãn hiệu “ANTACO ® GOLD 500EC” gửi làm mẫu so sánh đều tìm thấy Acetochlor.

- Trong 01 vỏ lọ nhựa màu trắng, nắp màu xanh gửi giám định và 01 lọ thuốc trừ cỏ nhãn hiệu “NIPHOSATE 480 SL” gửi làm mẫu so sánh đều tìm thấy Glyphosate.

- Acetochlor là thuốc trừ cỏ nhóm Chloroacetamide, thuộc nhóm độc III, có liều gây chết đối với chuột (LD50) qua đường miệng là 2148mg/kg thể trọng.

- Glyphosate là thuốc trừ cỏ nhóm lân hữu cơ, thuộc nhóm độc IV, có liều gây chết đối với chuột (LD50) qua đường miệng là 5000mg/kg thể trọng”.

Tại văn bản số 1145A/C09-P4 ngày 17/6/2019 Viện khoa học hình sự Bộ Công an giải thích:

- Để thử độc tính của các chất độc nói chung và các thuốc trừ cỏ nói riêng, người ta chỉ thử nghiệm trên động vật (chuột, chó, khỉ, thỏ,...). Liều LD50 là lượng chất độc gây chết 50% số cá thể của một nhóm động vật đem thử nghiệm. Liều LD50 càng nhỏ thì độc tính càng mạnh. Thường các chất độc với động vật thì độc với con người, liều độc với mỗi loài động vật khác nhau cũng khác nhau nên không thể suy diễn liều độc đối với động vật sang liều độc đối với con người.

- Hiện tại, Viện khoa học hình sự chưa tìm thấy tài liệu công bố về liều độc và liều gây chết của Acetochlor và Glyphosate đối với con người, cũng như mức độc ảnh hưởng của Acetochlor và Glyphosate khi đưa vào cơ thể con người theo đường tiêu hóa; do vậy không có cơ sở để đánh giá mức độ ảnh hưởng đến sức khỏe, liều độc, liều gây chết đối với con người của Acetochlor và Glyphosate khi đưa vào cơ thể qua đường tiêu hóa.

Trong quá trình điều tra, Phạm Văn A khai do nghi ngờ anh A5 quan hệ tình cảm bất chính với chị Trần Thị A3 là vợ A nên đã thả 02 lọ thuốc diệt cỏ xuống giếng nước của gia đình anh A5 nhằm mục đích đầu độc gia đình anh A5. Ngày 19/7/2019, Cơ quan điều tra đã cho A thực nghiệm tại hiện trường về các động tác quấn băng dính vào 02 lọ thuốc bảo vệ thực vật, chọc kim tiêm, thả 2 lọ thuốc bảo vệ thực vật xuống giếng nước nhà anh A5. Kết quả A thực hiện thuần thục các động các phù hợp lời khai bị can.

Đối với vật chứng gồm lõi cuộn băng dính, vỏ nắp lọ thuốc diệt cỏ và Aếc túi nilong: Theo A khai vứt tại khu vực ngã 3 giữa Quốc lộ 31 và đường rẽ vào ao cá nhà anh A8. Cơ quan điều tra đã truy tìm tại hiện trường nhưng không phát hiện, thu giữ được.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, Phạm Văn A đã đến xin lỗi gia đình anh A5 và bồi thường bằng cách thuê đào cho gia đình anh A5 một giếng nước mới để sử dụng với giá 12 triệu đồng. Anh A5 và gia đình không yêu cầu bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2019/HS-ST ngày 21 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã quyết định:

Căn cứ vào điểm l, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 15, Điều 57, Điều 54, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Văn A 07 (bảy) năm tù về tội "Giết người", thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.

Ngoài ra bản án còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 26 tháng 11 năm 2019, bị cáo Phạm Văn A kháng cáo xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Phạm Văn A giữ nguyên kháng cáo, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về đoàn tụ với gia đình.

Người bị hại anh Nguyễn Văn A5 xác định: Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, gia đình anh vẫn bơm nước từ giếng lên téc nước để sử dụng phục vụ sinh hoạt hàng ngày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm thể hiện: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi, áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo 07 năm tù là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo phạm tội do bột phát, không có chủ mưu từ trước, bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả xét hỏi và tranh luận công khai tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1]. Về hành vi, quyết định tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Văn A gửi trong thời hạn luật định, được cấp phúc thẩm chấp nhận.

[2]. Tại phiên tòa sơ thẩm cũng như tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Phạm Văn A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, người bị hại, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định, kết quả thực nghiệm điều tra cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở xác định: Phạm Văn A có mâu thuẫn với anh Nguyễn Văn A5 trú tại thôn ĐC, xã YĐ, huyện SĐ, tỉnh Bắc Giang do nghi ngờ anh A5 có quan hệ tình cảm nam nữ với Trần Thị A3 là vợ A. Khoảng 01 giờ ngày 30/4/2018, A ném 02 lọ thuốc diệt cỏ xuống giếng nước của gia đình anh A5 nhằm mục đích đầu độc gia đình anh A5 để trả thù. Gia đình anh A5 phát hiện bị đầu độc nên không sử dụng nguồn nước ở giếng. Xét bị cáo Phạm Văn A là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo nhận thức được thuốc diệt cỏ là thoại thuốc độc gây chết người và đã dùng loại chất độc này để ném xuống giếng nước của gia đình anh A5. Bị cáo nhận thức được hậu quả chết người có thể xảy ra và bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Việc gia đình anh A5 phát hiện bị đầu độc nên không sử dụng nguồn nước giếng là nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Giết người” thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt với tình tiết định khung “Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người” và “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm l, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3]. Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú và bồi thường bằng cách thuê đào cho gia đình anh A5 một giếng nước mới để sử dụng với giá 12 triệu đồng; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình đơn đề nghị xin giảm hình phạt của Công an xã YĐ, huyện SĐ, tỉnh Bắc Giang. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định xử phạt bị cáo 07 năm tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là phù hợp, các tình tiết giảm nhẹ trong văn bản đề nghị của Công an xã YĐ đã được cấp sơ thẩm áp dụng nên không có căn cứ giảm hình phạt cho bị cáo.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí phúc thẩm: Bị cáo kháng cáo không được cấp phúc thẩm chấp nhận nên phải chịu án phí phúc thẩm hình sự.

Vì các lẽ trên.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn A. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 60/2019/HS-ST ngày 21 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang.

1. Áp dụng điểm l, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 38; khoản 1 Điều 54; Điều 57 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Phạm Văn A 07 (bẩy) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

2. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn A phải chịu 200.000 đồng án phí phúc thẩm hình sự. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật ngay sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 148/2020/HS-PT ngày 11/05/2020 về tội giết người

Số hiệu:148/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về