Bản án 148/2020/DS-PT ngày 09/11/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 148/2020/DS-PT NGÀY 09/11/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 193/2020/TLPT-DS ngày 01 tháng 10 năm 2020 về việc tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 86/2020/DS-ST ngày 24/07/2020 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 193/2019/QĐPT-DS ngày 01 tháng 10 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Trần Văn Y, sinh năm 1950 (Có mặt).

Nơi cư trú: Số 33/2, tổ 10, đường TĐ T, ấp T 2, thị trấn P M, huyện PT, tỉnh A G.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1975 (Vắng mặt). Nơi cư trú: Ấp L Q 2, xã LĐ B, huyện ChM, tỉnh AG.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1949 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Ấp LP 2, xã LĐ B, huyện ChM, tỉnh AG.

4. Người kháng cáo: Ông Trần Văn Y là nguyên đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn là ông Trần Văn Y trình bày:

Vào ngày 03/12/2017 ông có cho ông Nguyễn Thanh T vay số tiền 45.000.000đ, thỏa thuận trả 3.000.000đ/tháng và bắt đầu trả từ ngày 15/12/2017 đến khi hết số nợ nhưng đến nay ông T chưa trả nợ cho ông. Ông yêu cầu ông T trả cho ông số tiền 45.000.000đ và yêu cầu tính lãi suất theo quy định của pháp luật tính từ ngày 03/12/2017 đến ngày xét xử. Trường hợp đến hạn trả nợ ông T không thực hiện thì ông Nguyễn Văn L phải có nghĩa vụ trả thay cho con là ông T theo Giấy bảo lãnh ngày 26/04/2018.

Bị đơn là ng Nguyễn Thanh T và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ng Nguyễn Văn L không cung cấp lời khai và chứng cứ cho Tòa án.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 86/2020/DS-ST ngày 24 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang đã tuyên xử:

Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn Y về việc buộc ông Nguyễn Văn L phải có nghĩa vụ trả nợ thay cho ông Nguyễn Thanh T, trong trường hợp đến hạn trả nợ ông T không trả nợ cho ông Y với số tiền 45.000.000đ.

Chp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn Y. Buộc ông Nguyễn Thanh T trả cho ông Trần Văn Y số tiền nợ 45.000.000đ và tiền lãi 12.050.000đ. Tổng cộng vốn và lãi 57.050.000đ (năm mươi bảy triệu kh ng trăm năm mươi nghìn đồng).

Về án phí:

Ông Nguyễn Thanh T phải chịu 2.852.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Trần Văn Y được miễn nộp tạm ứng án ph do ng là người cao tuổi. Do đó ng kh ng được nhận lại tiền tạm ứng án ph .

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo và thi hành án.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06 tháng 8 năm 2020 ông Trần Văn Y nộp Đơn kháng cáo yêu cầu sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 86/2020/DS-ST ngày 24/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới; Buộc ông L có nghĩa vụ liên đới cùng ông T trả nợ cho ông số tiền 45.000.000đ và tiền lãi theo quy định của pháp luật.

Các đương sự khác trong vụ án không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang tham gia phiên tòa và phát biểu ý kiến: Tại giai đoạn phúc thẩm những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và tuân thủ đúng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định về phiên tòa phúc thẩm, đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử, thành phần HĐXX, thư ký phiên tòa và thủ tục phiên tòa theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xử: Chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn Y; Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 86/2020/DS-ST ngày 24/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn Y về việc buộc ông Nguyễn Văn L có trách nhiệm trả nợ cho ông Y khi ông Nguyễn Thanh T không có khả năng trả nợ cho ông Y.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Trần Văn Y kháng cáo trong thời hạn luật định nên đủ cơ sở pháp lý để xem xét yêu cầu kháng cáo của ông Y theo trình tự phúc thẩm.

Bị đơn là ng Nguyễn Thanh T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 3 Điều 296 của Bộ luật tố tụng năm 2015 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông T và ông L.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn là ông Trần Văn Y giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 86/2020/DS-ST ngày 24/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới; buộc ông L có nghĩa vụ liên đới cùng ông T trả nợ cho ông Y số tiền 45.000.000đ và tiền lãi theo quy định của pháp luật.

[3] Về kháng cáo của ông Y, xét thấy ông Y có cho ông T vay vốn nhiều lần có sự bảo lãnh của ông L theo Tờ bảo lãnh (V/v vay tiền và trả góp) ngày 24/9/2015 do ông T ký tên người vay và ông L là người bảo lãnh để vay của ông Y số tiền 20.000.000đ, trả góp 12 kỳ mỗi kỳ 2.390.000đ bằng 28.680.000đ. Sau khi vay ông T không thực hiện trả nợ theo thỏa thuận nên hai bên có thỏa thuận miệng trả lãi 3%/tháng và ông T có trả lãi cho ông Y được 8 tháng mỗi tháng 600.000đ bằng 4.800.000đ thì ngưng, vốn chưa trả. Ngày 22/6/2016 ông L ký Tờ bảo lãnh vay thêm 30.000.000đ, trả góp 15 kỳ mỗi kỳ 3.060.000đ bằng 45.900.000đ nhưng ng T chưa trả tiền cho ông Y theo thỏa thuận. Hai lần vay tiền nêu trên là 50.000.000đ nhưng do ông Y và ông L là bạn bè thân thiết nên ông Y đồng ý bớt 5.000.000đ nên ngày 03/12/2017 ông T viết Biên nhận vay của ông Y số tiền 45.000.000đ, thỏa thuận mỗi tháng trả 3.000.000đ thực hiện từ ngày 15/12/2017 đến khi hết số nợ và ông L ký Tờ bảo lãnh ngày 26/4/2018. Nay ông Y yêu cầu ông L phải có nghĩa vụ liên đới cùng ông T trả số tiền 45.000.000đ và tiền lãi theo quy định của pháp luật. Ông T và ông L không cung cấp lời khai và chứng cứ chứng minh đối với yêu cầu khởi kiện của ông Y.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Y kháng cáo và kèm theo chứng cứ là Tờ bảo lãnh (V/v vay tiền và trả góp) ngày 24/9/2015, Tờ bảo lãnh ngày 22/6/2016 và ngày 26/4/2018 để chứng minh ông L là người bảo lãnh cho ông T vay của ông Y số tiền 45.000.000đ. Do đó, ng Y yêu cầu ông L phải thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh là phù hợp với Điều 335 và Điều 336 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Như vậy, ông T phải có nghĩa vụ trả cho ng số tiền 45.000.000đ và lãi như án sơ thẩm đã tuyên là có căn cứ. Trường hợp ông T không có khả năng trả nợ cho Y thì ông L phải thực hiện nghĩa vụ thay cho ông T trả nợ cho Y số tiền 45.000.000đ và lãi như án sơ thẩm đã tuyên.

Về lãi suất, tại Biên nhận ngày 03/12/2017 hai bên không thỏa thuận lãi suất nên cấp sơ thẩm đã căn cứ khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 để tính lãi từ ngày 03/12/2017 đến ngày 24/7/2020 đối với số tiền 45.000.000đ theo mức lãi suất 0,83%/tháng bằng 12.050.000đ là có cơ sở và ông Y không kháng cáo về lãi suất nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Các phần khác của bản án các đương sự không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị nên được giữ nguyên.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Y. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 86/2020/DS-ST ngày 24 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới như đã nhận định trên và đề xuất của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang tại phiên tòa.

[4] Về án phí: Yêu cầu kháng cáo của ông Y được chấp nhận nên ông Y không phải nộp phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào:

- Khoản 2 Điều 308 và Điều 315 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 335, Điều 336, Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 470 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

2. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn Y. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 86/2020/DS-ST ngày 24 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

3. Buộc ông Nguyễn Thanh T có nghĩa vụ trả cho ông Trần Văn Y số tiền (Vốn 45.000.000đ và lãi 12.050.000đ) 57.050.000đ (Năm mươi bảy triệu kh ng trăm năm mươi nghìn đồng).

4. Trường hợp ông Nguyễn Thanh T không có khả năng trả nợ cho ông Trần Văn Y thì ông Nguyễn Văn L phải có nghĩa vụ trả nợ thay cho ông Nguyễn Thanh T cho ông Trần Văn Y số tiền (Vốn 45.000.000đ và lãi 12.050.000đ) 57.050.000đ (Năm mươi bảy triệu kh ng trăm năm mươi nghìn đồng).

5. Về án phí:

5.1 Ông Trần Văn Y không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm.

5.2 Ông Nguyễn Thanh T và ông Nguyễn Văn L phải nộp 2.852.000đ (Hai triệu tám trăm năm mươi hai nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

ể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chưa thi hành đầy đủ khoản tiền nêu trên thì còn phải chịu lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

400
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 148/2020/DS-PT ngày 09/11/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:148/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về