Bản án 148/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, TP HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 148/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 163/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 179/2019/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

NGUYỄN HOÀNG L; sinh ngày 16 tháng 11 năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: số nhà 23/36/121 đường Nguyễn Hữu T, phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Q và bà Trương Thị B; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam: 10/5/2019. (Có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Nguyễn Đặng Thiện T, sinh năm 1994, nơi cư trú: số nhà 184/28 đường Huỳnh Văn N, Phường C, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.(Vắng mặt)

2. Bà Trương Thị B, sinh năm 1970, nơi cư trú: số nhà 23/36/121 đường Nguyễn Hữu T, phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

3. Ông Nguyễn Đức T1, sinh năm 1971, nơi cư trú: số nhà 288 đường Tân Kỳ Tân Q, phường E, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.(Vắng mặt)

 4. Anh Lê Văn H, sinh năm 1980, nơi cư trú: số nhà 24/9A khu phố 4, phường G, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 09/5/2019, tại ngã tư Trường C – Bình G, quận Tân B, tổ công tác 363 Công an quận Tân Bình, tuần tra phát hiện Nguyễn Đặng Thiện T điều khiển xe gắn máy biển số 53Y9-6239 chở Nguyễn Hoàng L vượt đèn đỏ nên đã yêu cầu dừng xe kiểm tra. T không chấp hành mà tăng ga xe bỏ chạy về hướng ngã ba Bà Q nhưng được một đoạn thì bị công an đuổi theo bắt giữ.

Căn cứ lời khai của Nguyễn Hoàng L, tổ công tác đã đưa T, L đến đoạn đường trước số nhà 322 đường Trường C, Phường F, quận D thu giữ được túi vải bên trong có ma túy mà L đã vứt bỏ xuống đường khi T chở bỏ chạy, kiểm tra bên trong túi có: 08 gói nylon chứa tinh thể không màu (Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn loại Ketamine có khối lượng 4,4228 gam); 01 gói nylon chứa 06 viên nén màu xanh và 01 gói nylon chứa 05 viên nén màu xanh (Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, loại MDMD có khối lượng 3,2376 gam). Tổng tỷ lệ phần trăm khối lượng ma túy có từ 02 chất trở lên theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 là 86,86%.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Hoàng L đã thừa nhận hành vi phạm tội và khai nhận: L có quen biết với đối tượng tên P (không rõ lai lich) từ đầu tháng 5/2019 tại một quán bar. P nhờ L đi giao ma túy cho khách, mỗi lần đi P cho L 200.000 đồng. Chiều tối ngày 09/5/2019, Phúc gọi điện nói L đến đường Điện Biên P, Quận L gặp người tên L (không xác định được lai lịch) lấy ma túy rồi chạy đến Quận N giao cho một người phụ nữ. L đồng ý nên khoảng 22 giờ ngày 09/5/2019, L nhờ Nguyễn Đặng Thiện T dùng xe gắn máy biển số 53Y9-6239 chở đến đường Điện Biên P (gần ngã tư Điện Biên P - Cao T). Khi đến nơi, T dừng xe chờ ngoài đầu hẻm, còn L đi vào trong hẻm gặp L nhận 01 túi vải bên trong có 13 viên “thuốc lắc” và 09 gói nylon chứa ma túy “khay”. Sau khi cất giấu ma túy vào bên trong quần lót đang mặc, L đi bộ ra kêu T tiếp tục chở đến khu vực đường Nguyễn Hữu T, Quận N để giao 02 viên thuốc lắc, 01 gói ma túy “khay” cho một người phụ nữ (không rõ lai lịch). Sau khi giao xong ma túy, T chở L về thì bị phát hiện và L đã lấy gói ma túy ra vứt xuống đường trước khi bị Công an bắt giữ.

Lộc khai việc trao đổi mua bán ma túy giữa đối tượng tên Phúc với Long, và người phụ nữ thế nào L không biết. L chỉ biết P kêu đi nhận ma túy ở Quận L và giao ma túy ở Quận N thì L làm theo. Việc đi nhận và giao ma túy L không nói cho T biết, còn T có biết L đi nhận ma túy để bán hay không thì L không rõ. Đây là lần đi giao ma túy đầu tiên, trước đây khi bị bắt do sợ và hoảng loạn nên khai đã đi giao ma túy giúp cho P nhiều lần, chứ thực sự L mới đi lần đầu và chưa nhận được tiền công. Số ma túy mà công an thu giữ là số ma túy còn lại sau khi giao cho người phụ nữ ở Quận N, L đem về để khi Phúc kêu đi giao ở đâu thì L đi giao ở đó.

Nguyễn Đặng Thiện T khai: Khoảng 22 giờ ngày 09/5/2019, được L nhờ chở ra đường Điện Biên P. Khi đến nơi L xuống xe và kêu T đứng chờ đầu hẻm, L đi vào trong hẻm một lúc thì đi ra và kêu chở về Quận N. Sau khi chở đến Quận N xong thì T chở L về, trên đường về thì bị Công an chặn lại do cho xe vượt đèn đỏ. T không biết việc L đi bán ma túy, cũng không chứng kiến L nhận và bán ma túy như thế nào.

Đối với Nguyễn Đặng Thiện T, khi bị phát hiện, kiểm tra phát hiện dương tính với chất ma túy, căn cứ lời khai chưa có cơ sở xác định T là đồng phạm với L về hành vi mua bán ma túy nên Công an Phường 13, quận Tân Bình đã ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra, T không còn cư trú tại địa phương, đi đâu không rõ nên không lấy được lời khai nhằm để làm rõ hành vi của T. Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm T nhưng chưa có kết quả.

Đối với đối tượng P và L do không xác định được nhân thân, lai lịch nên không có cơ sở điều tra làm rõ.

Vật chứng vụ án:

- 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh Cường, ghi số 1057 (tang vật ma túy còn lại sau giám định).

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 màu vàng thu giữ của L.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng thu giữ của T.

- 01 túi vải màu trắng có dây rút màu nâu, 01 B hút có gắn nỏ thủy tinh và ống hút, 01 B gas, 01 quẹt ga.

- 01 xe gắn máy hiệu Warm, biển số 53Y9-6239 thu giữ của L.

Kết quả xác minh xác định người đăng ký chủ sở hữu là ông Lê Văn H. Ông H khai tháng 2/2019 đã bán cho ông Nguyễn Đức T1 (chủ cửa hàng bán xe gắn máy Tiến Đ, số 288 đường Tân Kỳ Tân Q, phường E, quận B) nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ông T1 trình bày sau khi mua xe thì ngày 08/4/2019, ông đã bán xe gắn máy trên cho bà Trương Thị B, có làm giấy tờ mua bán và giao bản chính giấy đăng ký xe cho bà B. Bà B khai bà mua xe làm phương tiện đi lại, ngày 09/5/2019, con bà mượn xe đi công việc, bà không biết L sử dụng xe để đi mua bán ma túy. Hiện nay Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã trả lại xe gắn máy trên cho bà B.

Tại bản cáo trạng số 160/CT-VKS ngày 15 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân B đã truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đã trình bày luận tội, cụ thể: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua lời khai của bị cáo, thì hành vi cất giấu 4,4228 gam ma túy ở thể rắn, loại Ketamine và 3,2376 gam ma túy ở thể rắn, loại MDMA (Tổng tỷ lệ phần trăm khối lượng ma túy có từ 02 chất trở lên theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ là 86,86%) nhằm mục đích bán của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất ma túy, làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an tại địa phương, bị cáo phạm tội do cố ý nên cần xử phạt bị cáo mức án phù hợp mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, quá trình điều tra bị cáo đã lập công chuộc tội, nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ căn cứ trên đề nghị áp dụng điểm s, u khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 251 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Về vật chứng vụ án:

- Đối với 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh Cường, ghi số 1057 (tang vật ma túy còn lại sau giám định) là vật nhà nước cấm lưu hành, sử dụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 01 túi vải màu trắng có dây rút màu nâu, 01 B hút có gắn nỏ thủy tinh và ống hút, 01 bình gas, 01 quẹt ga là những vật không có giá trị nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 màu vàng thu giữ của bị cáo. Xét thấy bị cáo dùng điện thoại vào việc phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng thu giữ của T không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo và hiện T đang bị Công an quận Tân Bình ra thông báo truy tìm nên đề nghị Hội đồng xét xử giao trả Công an quận Tân Bình để giải quyết theo thẩm quyền.

- Đối với chiếc xe gắn máy hiệu Warm, biển số 53Y9-6239 thu giữ của L. Kết quả xác minh xác định người đăng ký chủ sở hữu là ông Lê Văn H. Ông H khai tháng 2/2019 đã bán cho ông Nguyễn Đức T1 (chủ cửa hàng bán xe gắn máy Tiến Đ, số 288 đường Tân Kỳ Tân Q, phường E, quận B) nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ông T trình bày sau khi mua xe thì ngày 8/4/2019, ông đã bán xe gắn máy trên cho bà Trương Thị B, có làm giấy tờ mua bán và giao bản chính giấy đăng ký xe cho bà B. Bà B khai bà mua xe làm phương tiện đi lại, ngày 09/5/2019, con bà mượn xe đi công việc, bà không biết L sử dụng xe để đi mua bán ma túy. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã trả lại xe gắn máy trên cho bà B. Hiện nay không có ai thắc mắc khiếu nại gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết lại.

Sau phần luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận, tranh tụng với Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhằm giúp cho bị cáo sửa chữa lỗi lầm của mình và sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo theo các tài liệu, chứng cứ được Công an quận Tân Bình lập, thì việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình ra quyết định tạm giữ, khởi tố vụ án, khởi tố bị can ra quyết định tạm giam để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với bị cáo Nguyễn Hoàng L về hành vi mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, thẩm tra các tài liệu, chứng cứ, luận tội, tranh tụng; nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua việc thẩm tra các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo, thì hành vi cất giấu 4,4228 gam ma túy ở thể rắn, loại Ketamine và 3,2376 gam ma túy ở thể rắn, loại MDMA (Tổng tỷ lệ phần trăm khối lượng ma túy có từ 02 chất trở lên theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ là 86,86%) nhằm mục đích bán của bị cáo Nguyễn Hoàng L là hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý về chất ma túy của Nhà nước, làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an tại địa phương, bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội do cố ý nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Đồng thời qua phần phân tích, đánh giá, nhận định của đại diện Viện kiểm sát trong phần luận tội, nhận thấy những căn cứ Viện kiểm sát viện dẫn làm cơ sở chứng minh hành vi phạm tội để đề nghị truy tố, xử phạt bị cáo như đã nêu trên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Mặc dù nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm và trừng trị, nhưng vì lợi ích cá nhân mà bị cáo đã cố ý phạm tội, nên cần xét xử bị cáo mức án phù hợp mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã lập công chuộc tội. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng tính tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s,u khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Việc đại diện Viện kiểm sát căn cứ tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân bị cáo để đề nghị áp dụng điểm s, u khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 251 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh Cường, ghi số 1057 (tang vật ma túy còn lại sau giám định) là vật nhà nước cấm lưu hành, sử dụng nên Hội đồng xét xử thống nhất tịch thu và tiêu hủy như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 01 túi vải màu trắng có dây rút màu nâu, 01 B hút có gắn nỏ thủy tinh và ống hút, 01 bình gas, 01 quẹt ga là những vật không có giá trị nên Hội đồng xét xử thống nhất tịch thu và tiêu hủy như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 màu vàng thu giữ của bị cáo. Xét thấy bị cáo dùng điện thoại vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử thống nhất tịch thu nộp ngân sách Nhà nước như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng thu giữ của Nguyễn Đặng Thiện T, hiện T đang bị Công an quận Tân Bình ra thông báo truy tìm nên Hội đồng xét xử thống nhất giao trả Công an quận Tân Bình để giải quyết theo thẩm quyền như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với chiếc xe gắn máy hiệu Warm, biển số 53Y9-6239 thu giữ của L. Kết quả xác minh xác định người đăng ký chủ sở hữu là ông Lê Văn H. Ông H khai tháng 2/2019 đã bán cho ông Nguyễn Đức T1 (chủ cửa hàng bán xe gắn máy Tiến Đ, số 288 đường Tân Kỳ Tân Q, phường E, quận B) nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ông T1 trình bày sau khi mua xe thì ngày 8/4/2019, ông đã bán xe gắn máy trên cho bà Trương Thị B, có làm giấy tờ mua bán và giao bản chính giấy đăng ký xe cho bà Bi. Bà B khai bà mua xe làm phương tiện đi lại, ngày 09/5/2019, con bà mượn xe đi công việc, bà không biết L sử dụng xe để đi mua bán ma túy. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã trả lại xe gắn máy trên cho bà B. Hiện nay không có ai thắc mắc khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không giải quyết lại như đề nghị của Viện kiểm sát.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s, u khoản 1 Điều 51, Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Luật phí, lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: NGUYỄN HOÀNG L 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Thời hạn tù tính từ ngày 10/5/2019.

[2] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu và tiêu hủy: 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh Cường, ghi số 1057 (tang vật ma túy còn lại sau giám định), 01 túi vải màu trắng có dây rút màu nâu, 01 B hút có gắn nỏ thủy tinh và ống hút, 01 bình gas và 01 quẹt ga (Tình trạng theo Phiếu nhập kho vật chứng của Công an quận Tân Bình).

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, số imei: 352877107638384 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 màu vàng, số imei: 359752/07/091083/4 (Tình trạng theo Phiếu nhập kho vật chứng của Công an quận Tân Bình).

- Giao Công an quận Tân Bình 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng, số imei: 358484/06/156192/8 để giải quyết theo thẩm quyền (tình trạng theo Phiếu nhập kho vật chứng của Công an quận Tân Bình).

[3] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sư có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015).

Hội đồng xét xử đã giải thích về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án cho đương sự theo quy định tại Điều 26 Luật Thi hành án (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015).

[4] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt, niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 148/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:148/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về