Bản án 148/2018/HNGĐ-ST ngày 28/09/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 148/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 28 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 309/2018/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 141/2018/QĐXX-ST ngày 17 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thu T - sinh năm: 1983

Địa chỉ: Thôn K, xã H, huyện C, tỉnh Khánh Hòa.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn A - sinh năm: 1983

Địa chỉ: số M, đường T, phường V, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Trần Thị Thu T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Thu T và ông Nguyễn Văn A tự nguyện kết hôn, được UBND phường V, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 82/2013 ngày 20/08/2013. Trong quá trình chung sống, giữa bà T và ông A phát sinh nhiều mâu thuẫn. Ông A thường xuyên đánh bạc, không chăm lo cho vợ con gia đình. Vì đam mê cờ bạc mà dẫn đến gia đình rơi vào hoàn cảnh nợ nần, nhiều lần gia đình nội ngoại giúp đỡ để trả nợ nhưng ông A vẫn không từ bỏ, nợ sau còn nhiều hơn nợ trước. Hiện nay bà T và ông A không còn chung sống với nhau. Bà T nhận thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không hàn gắn được vì vậy bà T yêu cầu được ly hôn ông A.

Về con chung: Bà T và ông A có một con chung là Nguyễn Trần Quỳnh N, sinh ngày 07/7/2014. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu ông A phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà T không yêu cầu Tòa giải quyết.

Quan điểm của Viện kiểm sát: Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào các Điều 53, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T; giao con chung là cháu Nguyễn Trần Quỳnh N cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; các đương sự không yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con và giải quyết về tài sản chung nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn ông Nguyễn Văn A nhiều lần nhưng ông A không đến Tòa. Tòa án cũng đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai để ông A tham gia phiên tòa nhưng ông A vẫn vắng mặt không có lý do; ngày 07/9/2018 nguyên đơn bà Trần Thị Thu T có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 228; Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, bà Trần Thị Thu T và ông Nguyễn Văn A tự nguyện kết hôn, được UBND phường V, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 82/2013 ngày 20/08/2013. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Theo lời trình bày của bà T, trong quá trình chung sống, giữa bà T và ông A xảy ra nhiều mâu thuẫn không giải quyết được khiến vợ chồng từ lâu đã bất hòa không hạnh phúc. Qua kết quả xác minh của Tòa án tại UBND phường V được biết: hiện nay bà T và ông A không còn chung sống với nhau. Như vậy thực tế bà T và ông A đã sống ly thân. Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn giữa bà T và ông A đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy chấp nhận yêu cầu của bà T về việc được ly hôn ông A.

Về con chung: Bà Trần Thị Thu T và ông Nguyễn Văn A có một con chung là Nguyễn Trần Quỳnh N, sinh ngày 07/7/2014. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu ông A cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy cháu N còn nhỏ cần có sự chăm sóc của người mẹ nên chấp nhận yêu cầu của bà T về việc được trực tiếp nuôi con chung. Bà T không yêu cầu ông A cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Án phí: Nguyên đơn bà Trần Thị Thu T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp nên bà T đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

1.Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà Trần Thị Thu T được ly hôn ông Nguyễn Văn A.

2.Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Trần Quỳnh N, sinh ngày 07/7/2014 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Bà T không yêu cầu ông A cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Ông A được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở. Trong quá trình nuôi dưỡng con chung, nếu xét thấy cần thiết, bà T và ông A đều có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung cũng như yêu cầu thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con chung.

3.Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4.Về án phí: Nguyên đơn bà Trần Thị Thu T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2016/0008547 ngày 07 tháng 03 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang. Như vậy, bà T đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết để đề nghị Tòa án cấp trên xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 148/2018/HNGĐ-ST ngày 28/09/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:148/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về