Bản án 147/2020/HS-PT ngày 10/03/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 147/2020/HS-PT NGÀY 10/03/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 10/3/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 08/2020/HSPT ngày 02/01/2020 đối với bị cáo Nguyễn Tấn Đ và Vũ Huy H, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 670/2020/QĐXXPT-HS ngày 18/02/2020, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án sơ thẩm số 205/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân quận G, Thành phố H.

Các bị cáo có kháng cáo:

1.Họ và tên: Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1994 tại Thành phố H; nơi đang ký thường trú: 17/4 đường B, Phường 3, quận T, Thành phố H; nơi cư trú: 87/33/1 đường N, Phường 15, quận T, Thành phố H; nghề nghiệp: thợ mộc; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tấn L (đã chết) và bà Trần Thị L; hoàn cảnh gia đình: vợ tên Đồng Thiên Y có 1 con sinh năm 2014;

Tiền án: (không); Tiền sự:

-Ngày 21/4/2016, bị Tòa án nhân dân Quận 2 xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng vì hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Quyết định số 40/QĐ-TA ngày 25/5/2016), ngày 21/4/2018 chấp hành xong; Nhân thân:

-Ngày 16/6/2008, bị Công an quận T bắt về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng theo quyết định số 24 ngày 05/6/2008 của Ủy ban nhân dân quận T, Thành phố H -Ngày 24/3/2011, bị Tòa án nhân dân quận T, Thành phố H xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (theo bản án số 65/HSST ngày 24/3/2011);

Bắt, tạm giam ngày: 12/5/2019;

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2.Họ và tên: Vũ Huy H; sinh năm 1996 tại tỉnh N; nơi đăng ký thường trú: Đội 9, xóm TS, xã GC, huyện GT, tỉnh N; nơi cư trú: 47 đường Nguyễn Thanh T, Phường 2, quận T, Thành phố H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn T và bà Vũ Thị C; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con;

Tiền án, tiền sự: (không);

Bắt, tạm giam ngày: 12/5/2019;

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị: Bị hại:

1.Bà Phạm Thị Mỹ V, sinh năm: 1965; nơi cư trú: 78/5/48 đường số 51, Phường 14, quận G, Thành phố H; vắng mặt;

2.Ông Nguyễn Ngọc A, sinh năm 1972; nơi cư trú: 50/38/1 đường số 59, Phường 14, quận G, Thành phố H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00 ngày 12/5/2019, Nguyễn Tấn Đ điều khiển xe máy Yamaha Exciter, biển số 59S1-122.06 chở Vũ Huy H đi lòng vòng trên nhiều tuyến đường ở quận G, Thành phố H với mục đích tìm kiếm cơ hội cướp giật tài sản của người khác. Khi đến khu vực trước nhà số 46 đường Phạm Văn C, Phường 8, quận G, Thành phố H, H phát hiện bà Phạm Thị Mỹ V đang đứng đón xe Grab, trên tay cầm chiếc điện thoại hiệu Iphone X nên H nói cho Đ biết. Đ chạy xe áp sát bà V, H ngồi sau dùng tay phải giật chiếc điện thoại của chị V, rồi tăng ga xe tẩu thoát Trong lúc chạy xe trên đường Phan Huy I, quận G, Đ nhìn thấy ông Nguyễn Ngọc A điều khiển xe máy đi cùng chiều, phía sau chở vợ là bà Ngô Thị H, trên cổ ông Ngọc A có đeo 01 sợi dây vàng nên Đ báo cho H biết. Khi đến khu vực trước trước nhà số 205 đường Phan Huy I, Phường 14, quận G, Đ điều khiển xe chạy áp sát bên trái xe của ông Ngọc A, H dùng tay phải giật sợi dây chuyền của ông Ngọc A nhưng giật hụt. Ông Ngọc A truy hô “'Cướp …” và đuổi theo Đ và H. Đ tăng ga xe bỏ chạy. Khi đến trước nhà số 136 đường Phan Huy I, Phường 15, quận T, Đ để xe máy đụng vào xe vào ô tô mang biển số 92A-103.87 do ông Đặng Văn Cđang điều khiển nên cả Đ và H bị ngã xe. H đứng dậy định bỏ chạy và vứt lại chiếc điện thoại hiệu IPhone X thì ông Ngọc A nhặt được. Ông Ngọc A đuổi theo đến trước nhà số 118/125 đường Phan Huy I, Phường 15, quận T thì bắt giữ được H. Riêng Đ chạy xe đến trước nhà số 106 đường Phan Huy I, Phường 15, quận T thì cũng bị quần chúng bắt giữ.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra có thu giữ sợi dây chuyền vàng của ông Ngọc A, chiếc điện thoại Iphone X 64GB của bà V và một số vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội của các bị cáo.

Theo kết luận định giá tài sản số 224/KL ngày 26/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận G thì:

-01 sợi dây chuyền vàng 18k, khối lượng 41,53chỉ và 01 mặt dây chuyền vàng 18k, khối lượng 7,5 chỉ vàng của ông Ngọc A có tổng trị giá là 133.688.000đ;

-Chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X 64GB của bà V có trị giá là 14.500.000đ.

Ngày 16/8/2019, cơ quan điều tra đã trao trả các tài sản trên cho người bị hại.

Tại cáo trạng số 202/CTr-VKS ngày 11/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận G đã truy tố Nguyễn Tấn Đ và Vũ Huy H về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm c, d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 205/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 và “Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án” số 48/2019/TB-TA ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân quận G, Thành phố H đã quyết định như sau:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Tấn Đ và Vũ Huy H phạm tội “Cướp giật tài sản”;

Căn cứ vào điểm c, d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Đ 4 (bốn) năm 6 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/5/2019 . Xử phạt bị cáo Vũ Huy H 4 (bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/5/2019.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí; tuyên xử lý vật chứng; tuyên quyền kháng cáo của các bị cáo và các đương sự.

Ngày 10/12/2019, các bị cáo có đơn kháng cáo với cùng nội dung: Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với các bị cáo là nặng, các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Các bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo. Riêng bị cáo Đ có trình bày thêm về hoàn cảnh gia đình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp có 2 tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự (dùng thủ đoạn nguy hiểm, tài sản chiếm đoạt trên 50.000.000đ và dưới 200.000.000đ); phạm tội 2 lần trở lên. Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với các bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên và bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Trong quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, các bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2].Căn cứ lời khai của các bị cáo, người làm chứng, người bị hại, người làm chứng, căn cứ vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác, có cơ sở để xác định rằng:

Các bị cáo đã có hành vi cướp giật tài sản của người khác với thủ đoạn nguy hiểm, đó là dùng xe máy có phân khối lớn để làm phương tiện cướp giật.

Trong ngày 12/5/2019, các bị cáo đã thực hiện liên tiếp 2 vụ cướp giật tài sản, đó cướp giật chiếc điện thoại di động của bà Phạm Thị Mỹ V và sợi dây chuyền vàng của ông Ngọc A với tổng trị giá gần 150.000.000đ. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm trái phép đến tài sản của công dân mà còn xâm hại đến an toàn công cộng, có thể gây thiệt hại đến sức khỏe và tính mạng người khác. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái, bị luật pháp nghiêm cấm nhưng vì động cơ tư lợi nên vẫn cố ý vi phạm.

Đối chiếu với quy định của pháp luật, có đủ căn cứ kết luận các bị cáo đã phạm tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án các bị cáo theo tội danh, điều luật như đã nêu là đúng pháp luật.

Các bị cáo phạm tội 2 lần trở lên nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật.

Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã được thu hồi giao trả cho bị hại, riêng H mới phạm tội lần đầu nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo là có căn cứ.

[3].Về kháng cáo của các bị cáo.

Mặc dù các bị cáo có một số tình tiết giảm nhẹ như đã nêu nhưng các bị cáo cũng có tình tiết tăng nặng; phạm tội thuộc trường hợp có 2 tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự; tài sản chiếm đoạt có giá trị lớn; Đ là người có nhân thân không tốt, đã từng bị xử lý hình sự và hành chính liên quan đến hành chiếm đoạt trái phép tài sản và sử dụng trái phép chất ma túy. Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với các bị cáo là mức án nhẹ trong khung hình phạt, là tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm, đặc điểm nhân thân, các các tiết tăng nặng; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà các bị cáo được hưởng.

Vì các lý do đã nêu, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

[4].Kháng cáo của các bị cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,

1.Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 205/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân quận G, Thành phố H, Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Tấn Đ và Vũ Huy H phạm tội “Cướp giật tài sản”;

Căn cứ vào điểm c, d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Đ 4 (bốn) năm 6 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/5/2019 .

Xử phạt bị cáo Vũ Huy H 4 (bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/5/2019.

2.Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3.Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4.Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

338
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 147/2020/HS-PT ngày 10/03/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:147/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về