TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 147/2018/HSST NGÀY 27/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 117/2018/HSST ngày 22 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:
Lê Thị Q, sinh ngày 03 tháng 3 năm 1967 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Dân tộc: Kinh; Số CMND: 024096910; Giới tính: Nữ; Thường trú: 125/166A đường V, phường H, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 3/12; con ông Nguyễn N V (đã chết) và con bà Lê Thị M (sinh năm 1936); chồng: Nguyễn Văn G (sinh năm 1963, đã chết), có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 1995; 01 tiền án: Ngày 14/6/2014 phạm tội “Trộm cắp tài sản” bị Tòa án nhân dân Quận 5 xử phạt 02 năm 06 tháng tù (theo Bản án số 178/HSST ngày 25/9/2014) chấp hành xong hình phạt tù 14/8/2016; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 17/9/2010 phạm tội “Trộm cắp tài sản” bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 01 năm tù (theo Bản án số 84/HSST ngày 13/5/2011) chấp hành xong hình phạt ngày 17/9/2011; Bị tạm giam từ ngày 05/5/2018 (có mặt).
Người tham gia tố tụng khác:
- Bị hại: Công ty TNHH N do ông Phạm Văn T là địa diện theo ủy quyền. Địa chỉ: Đường T, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.(vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lê Thị Bích N, sinh năm 1967; Địa chỉ: Xã B, huyện A, thành phố L, tỉnh Đồng Tháp. (vắng mặt)
2. Bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1974; Địa chỉ: Đường H, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
3. Ông Võ Quốc B, sinh năm 1980; Địa chỉ: Xã H, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 12 giờ 15 phút ngày 05/5/2018, Lê Thị Bích N (khai tên giả: Lê Thị Bích L, Lê Thị Bích L) điều khiển xe gắn máy biển số 54M2-0543 chở Lê Thị Q (khai tên giả: Lê Thị N) đến cửa hàng M số 222 đường T, phường T, Quận 1. Q và Ng vào trong cửa hàng, lợi dụng sơ hở của các nhân viên bán hàng, Q lấy trộm 01 chai dầu gội đầu hiệu Clear men 650g, 01 tuýp sữa rửa mặt hiệu Pond’s, 05 hộp kẹo ngậm hiệu Pullmoll rồi giấu tất cả bên trong áo khoác xanh đang mặc. Còn N lấy: 01 chai dầu gội hiệu Clear men 650g, 01 sữa rửa mặt hiệu Pond’s, 04 hộp kem đánh răng hiệu Sensodyne 100g cất giấu bên trong áo khoác màu hồng đang mặc. Sau đó N mang 01 chai nước mắm hiệu Nam Ngư đến quầy tính tiền rồi cả hai đi ra cửa. Lúc này anh Phạm Văn T (bảo vệ cửa hàng) đã nhìn thấy nên chặn lại kiểm tra phát hiện Q và N trộm cắp hàng hóa trong cửa hàng nên đã báo Công an đồng thời cùng anh Trịnh Xuân H là bảo vệ dân phố Công an phường T dẫn giải N và Q cùng vật chứng về Công an phường T, Quận 1 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Theo kết luận định giá tài sản số 145 /KL-HĐĐGTS ngày 10/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận:
- 05 hộp kẹo ngậm bạc hà hiệu Pullmoll; 01 chai dầu gội đầu hiệu Clear men loại 650gr; 01 tuýp sữa rửa mặt hiệu Pond’s do Lê Thị Q lấy trộm) có tổng giá trị là 498.000 dồng.
- 04 hộp kem đáng răng hiệu Sensodyne; 01 chai dầu gội đầu hiệu Clear men loại 650 gr; 01 tuýp sữa rửa mặt hiệu Pond’s (do Lê Thị Bích N lấy trộm) có tổng giá trị là 464.000 đồng.
Qua xác minh Lê Thị Q đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” vừa chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/8/2016 chưa được xóa án tích nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đã khởi tố điều tra đối với Q, còn Lê Thị Bích N do N khai tên Lê Thị Bích Liên sinh năm 1962, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đang tiếp tục xác minh tiền án tiền sự của N để làm căn cứ xử lý về tội “Trộm cắp tài sản”, khi nào có đủ cở sở sẽ khởi tố xử lý sau.
Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 1, Lê Thị Q khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên, Q khai nhận cả hai không bàn bạc trước với nhau, khi vào cửa hàng thấy ít nhân viên trông coi nên cả hai lấy trộm hàng hóa ai lấy được bao nhiêu sẽ tự tiêu xài không ăn chia với nhau.
* Vật chứng vụ án:
- 05 hộp kẹo ngậm bạc hà hiệu Pullmoll; 01 chai dầu gội đầu hiệu Clear men loại 650gr; 01 tuýp sữa rửa mặt hiệu Pond’s do Lê Thị Q lấy trộm) có tổng giá trị là 498.000 đồng.
- 04 hộp kem đáng răng hiệu Sensodyne; 01 chai dầu gội đầu hiệu Clear men loại 650 gr; 01 tuýp sữa rửa mặt hiệu Pond’s (do Lê Thị Bích N lấy trộm) có tổng giá trị là 464.000 đồng.
Tất cả đã thu hồi trả lại cho ông Phạm Văn T người đại diện ủy quyền của Công ty TNHH N.
- 01 xe gắn máy Trung Quốc biển số: 54M2-0543 qua xác minh chiếc xe do bà Nguyễn Thị Kim H (sinh năm: 1974; Thường trú: Đường H, Phường A, Quận B) đứng tên đăng ký xe. Bà H khai đã bán xe vào năm 2008 nhưng không nhớ tên người mua. Anh Võ Quốc B (Sinh năm 1980; Thường trú: ấp B, xã A, Thành phố L, tỉnh Đồng Tháp) khai mua xe trực tiếp từ chủ xe nhưng không còn giấy tờ mua bán. Lê Thị Bích N là dì họ của anh B, anh đã cho Bích N mượn xe vào ngày 05/5/2018 N sử dụng cho đến khi bị bắt quả tang khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhưng anh B không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đã tiến hành cho đăng báo tìm chủ sở hữu xe nhưng đến nay chưa ai đến liên hệ. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đang tạm giữ.
Thu giữ của bị cáo Q:
- 01 áo khoác màu xanh; 01 ĐTDĐ hiệu Mobistar; Tạm giữ của Lê Thị Bích N:
- 01 áo khoác màu hồng; 01 ĐTDĐ hiệu Mobistar
- 01 đĩa ghi hình Lê Thị Q và Lê Thị Bích N đang thực hiện hành vi trộm cắp hàng hóa tại cửa hàng M.
Tất cả số vật chứng trên hiện Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đang tạm giữ.
Tại bản cáo trạng số 121/CT-VKS ngày 16 tháng 8 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Thị Q bị truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b, khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 tham gia phiên tòa kết luận bị cáo Lê Thị Q đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Sau khi phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đề nghị Tòa án áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Q từ 12 đến 18 tháng tù. Đối với vật chứng của vụ án, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Bị cáo đã có hành vi lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của của các nhân viên bán hàng tại cửa hàng M số 222 đường T, phường T, Quận 1 lén lút lấy trộm 01 chai dầu gội đầu hiệu Clear men 650g, 01 tuýp sữa rửa mặt hiệu Pond’s, 05 hộp kẹo ngậm hiệu Pullmoll rồi giấu tất cả bên trong áo khoác xanh đang mặc. Trong lúc đi ra cửa thì bị anh Phạm Văn T (bảo vệ cửa hàng) nhìn thấy nghi ngờ trộm cắp tài sản cửa hàng nên chặn lại kiểm tra phát hiện Q trộm cắp hàng hóa trong cửa hàng nên đã báo Công an đồng thời cùng anh Trịnh Xuân H là bảo vệ dân phố Công an phường Bến Thành dẫn giải cùng vật chứng về Công an phường T, Quận 1 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Căn cứ kết luận định giá tài sản số 145 /KL-HĐĐGTS ngày 10/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 05 hộp kẹo ngậm bạc hà hiệu Pullmoll; 01 chai dầu gội đầu hiệu Clear men loại 650gr; 01 tuýp sữa rửa mặt hiệu Pond’s do Lê Thị Q lấy trộm có tổng giá trị là 498.000 đồng.
Do Lê Thị Q đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” vừa chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/8/2016 chưa được xóa án tích nên đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái nhưng vì động cơ tư lợi cá nhân nên vẫn cố tình thực hiện. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, đã có tiền án về tội xâm phạm sở hữu do đó cần có mức án nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe đối với bản thân bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.
Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa, nhận thấy bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, pham tội nhưng chưa gây thiệt hại nên khi lượng hình Hội đồng xét xử áp dụng điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu nh m giáo dục, cải tạo bị cáo.
Riêng đối với hành vi của Lê Thị Bích N, do N khai tên Lê Thị Bích Liên sinh năm 1962 chưa xác minh được lý lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 cần tiếp tục xác minh tiền án tiền sự của N để làm căn cứ xử lý về tội “Trộm cắp tài sản”, khi nào có đủ cở sở sẽ khởi tố xử lý sau. Đồng thời, các vật chứng cơ quan Công an thu giữ của Lê Thị Bích N bao gồm 01 áo khoác màu hồng; 01 ĐTDĐ hiệu Mobistar sẽ được xử lý khi giải quyết vụ việc nêu trên (Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 35/PNK ngày 01/8/2018).
[3]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại Điều 106; 107 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tài sản bị trộm cắp đã giao trả bị hại; Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án 01 đĩa ghi hình do có chứa dữ liệu hình ảnh vụ trộm; Tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác màu xanh thu giữ của bị cáo Q do không còn giá trị sử dụng; Trả lại cho bị cáo 01 ĐTDĐ hiệu Mobistar nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án (Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 35/PNK ngày 01/8/2018); Đối với 01 xe gắn máy Trung Quốc biển số: 54M2-0543 qua xác minh chiếc xe do bà Nguyễn Thị Kim H (sinh năm: 1974; Thường trú: đường H, Phường A, Quận B) đứng tên đăng ký xe. Bà H khai đã bán xe vào năm 2008 nhưng không nhớ tên người mua. Anh Võ Quốc B (Sinh năm 1980; Thường trú: ấp B, xã A, Tp L, tỉnh Đồng Tháp) khai mua xe trực tiếp từ chủ xe nhưng không còn giấy tờ mua bán. Lê Thị Bích N là dì họ của anh B, anh đã cho Bích N mượn xe vào ngày 05/5/2018 N sử dụng cho đến khi bị bắt quả tang khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhưng anh Bổn không biết cần tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu trong thời hạn theo quy định. Quá thời hạn không tìm được chủ sở hữu thì trả lại cho anh Võ Quốc B là người quản lý tài sản. Nếu có tranh chấp về quyền sở hữu đối với chiếc xe trên thì giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự (theo Phiếu nhập kho vật chứng số 164/PNK ngày 24/5/2018).
[4]. Án phí hình sự sơ thẩm: 200.000 đồng bị cáo chịu.
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lê Thị Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; xử phạt Lê Thị Q 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/5/2018.
- Áp dụng Điều 106; 107 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án 01 đĩa ghi hình; Tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác màu xanh thu giữ của bị cáo Q; Trả lại cho bị cáo Q 01 ĐTDĐ hiệu Mobistar nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án (theo Phiếu nhập kho vật chứng số 35/PNK ngày 01/8/2018); Tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu trong thời hạn theo quy định đối với xe gắn máy Trung Quốc biển số 54M2-0543. Quá thời hạn không tìm được chủ sở hữu thì trả lại cho anh Võ Quốc Bổn là người quản lý tài sản. Nếu có tranh chấp về quyền sở hữu đối với chiếc xe trên thì giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự (theo Phiếu nhập kho vật chứng số 164/PNK ngày 24/5/2018).
- Áp dụng:
Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Lê Thị Q phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Áp dụng các Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 147/2018/HSST ngày 27/09/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 147/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về