Bản án 146/2020/HS-ST ngày 24/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 146/2020/HS-ST NGÀY 24/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 24 tháng 7 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 150/2020/HSST ngày 19 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 162/2020/QĐXX-HS ngày 08 tháng 7 năm 2020; Thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử số 15/TB-TA ngày 15 tháng 7 năm 2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn O, sinh ngày 01-01-1975 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Hộ khẩu thường trú: 64/17 đường L, Phường B, TP.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Chỗ ở: 140 đường L, Phường 7, TP.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Cha: Nguyễn Văn S, sinh năm 1945; Mẹ: Lê Kim S, sinh năm 1955; Vợ: Nguyễn Thị Thành S, sinh năm 1977 (đã ly hôn); Con: 01 người sinh năm 2000; Tiền sự: Không;

Tiền án:

- Ngày 20-9-2010, bị Tòa án nhân dân TP.Vũng Tàu xử 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và ngày 30-12-2010, Tòa án nhân dân TP.Vũng Tàu xử phạt 12 tháng tù về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tổng hợp hình phạt Nguyễn Văn Oanh phải chấp hành 21 tháng tù;

- Ngày 25-12-2012, bị Tòa án nhân dân TP.Vũng Tàu tuyên phạt 08 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 220/2012/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 13-05-2019;

Bị bắt: Ngày 07 tháng 02 năm 2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 07-02-2020, tại nhà số 74 đường N, phường T, TP.Vũng Tàu, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phối hợp với Công an phường T, TP.Vũng Tàu phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn O đang tàng trữ trái phép chất ma túy (Methamphetamine).

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn O khai nhận: số ma túy của O bị Cơ quan Công an thu giữ là của O. O mua của một người phụ nữ (không rõ lai lịch) tại khu vực phường N, TP.Vũng Tàu về để sử dụng dần nhưng chưa sử dụng thì bị bắt quả tang như trên.

Tại bản kết luận giám định số 100/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 14-02-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu kết luận:

- Mẫu chất kết tinh không màu-trong suốt chứa trong 04 gói ny lon hàn kín (mẫu A1), được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an phường Thắng Tam – Công an TP.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Thiếu tá Hồ Bá Khánh S, Lê Tiến D, Lê Văn H, Nguyễn Văn O gửi đến giám định có tổng khối lượng 5,7467 gam, là chất Ma túy, loại Methamphetamine.

- Mẫu chất bột màu trắng chứa trong 10 (mười) gói ny lon hàn kín (mẫu A2) được niêm phong trong cùng phong bì nêu trên, gửi đến giám định có tổng khối lượng 5,8534 gam, là chất Ma túy, loại Ketamine.

- Mười một viên nén màu cam, không rõ hình dạng, có in hình khuôn mặt người trên hai bề mặt (mẫu A3), được niêm phong trong cùng phong bì nêu trên, gửi đến giám định không tìm thấy thành phần các chất ma túy thường gặp, có tổng khối lượng 5,3881 gam. Mẫu có chứa Dextromethorphan.

- Hai viên nén màu xanh lá, hình tròn, viền răng cưa, có in khuôn mặt người trên một bề mặt (mẫu A4), được niêm phong trong cùng phong bì nêu trên, gửi đến giám định không tìm thấy thành phần các chất ma túy thường gặp, có tổng khối lượng 0,7036 gam. Mẫu có chứa Cafeine.

- Sáu viên nén hình tròn, màu xanh dương (mẫu A5), được niêm phong trong cùng phong bì nêu trên, gửi đến giám định có tổng khối lượng 2,0960 gam, là chất Ma túy, loại MDMA. Mẫu có chứa Cafeine.

- Ba viên nén hình tròn, màu cam có in chìm các ký tự V,L chồng lên nhau trên một bề mặt (mẫu A6), được niêm phong trong cùng phong bì nêu trên gửi đến giám định không tìm thấy thành phần các chất ma túy thường gặp, có tổng khối lượng 1,1730 gam. Mẫu có chứa Dextromethorphan.

Công an TP.Vũng Tàu đã thu giữ vật chứng và một số tài sản gồm:

- Toàn bộ số ma túy như trên đã được giám định.

- 01 xe mô tô biển số 72C1-863.66, số máy 0115901, số khung 5814GY11587.

- 01 xe mô tô biển số 72C1-24504, số máy 4036515, số khung 102496.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số Imei 353337078790457;

- 11.000.000đ (mười một triệu đồng tiền Việt Nam);

- 02 cân tiểu ly;

- 01 quyển sổ màu hồng;

- 03 nỏ thủy tinh;

- 05 con dao tự chế.

Tất cả số vật chứng trên được Cơ quan CSĐT Công an TP.Vũng Tàu chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý, chờ xử lý.

Bản cáo trạng số 160/CT-VKSTPVT ngày 18-6-2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố Nguyễn Văn O về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo điểm n và điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi Nguyễn Văn O thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm n, o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điêu 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Văn O mức án từ 07 đến 09 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy và những chất giám định không phải là ma túy là tang vật trong vụ án, 03 nỏ thủy tinh và 05 con dao tự chế;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số Imei 353337078790457; 11.000.000đ (mười một triệu đồng tiền Việt Nam); 01 quyển sổ màu hồng; 01 xe mô tô biển số 72C1-863.66, số máy 0115901, số khung 5814GY11587; 01 xe mô tô biển số 72C1- 24504, số máy 4036515, số khung 102496 là tài sản không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng và ý kiến luận tội của Viện kiểm sát, công nhận Viện kiêm sát truy t ố đúng tội danh và không có ý kiến gì tự bào chữa cho hành vi phạm tội của mình, chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần mức án.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toan bô hanh vi phạm tội của mình . Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 07-02-2020, tại nhà số 74 đường N, phường T, TP.Vũng Tàu, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an TP.Vũng Tàu phối hợp với Công an phường T, TP.Vũng Tàu bắt quả tang Nguyễn Văn O đang tàng trữ trái phép 5,7467 gam Methamphetamine; 2,0960 gam MDMA và 5,8534 gam Ketamine. Số ma túy này, O tàng trữ để sử dụng. Hành vi bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm n Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án số 220/2012/HSST ngày 25-12-2012, Tòa án nhân dân TP.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã xác định Nguyễn Văn O tái phạm và xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 13-05-2019, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung quy định tại điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Vì vậy Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n, o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được pháp luật hình sự bảo vệ; là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm khác, ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh tại địa phương. Bị cáo là người đã trưởng thành có đầy đủ năng lực hành vi, là người sử dụng ma túy nên biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo cũng đã nhiều lần bị Tòa án kết án nhưng sau ra tù không lấy đó làm bài học tu sửa bản thân mà tiếp tục phạm tội thể hiện bị cáo không có ý thức ăn năn hối cải. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: Không có ;

Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khân khai báo nên áp dụng điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy và những chất giám định không phải là ma túy trong vụ án là những chất nhà nước cầm lưu hành; 03 nỏ thủy tinh, 05 con dao tự chế;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số Imei 353337078790457; 11.000.000đ (mười một triệu đồng tiền Việt Nam); 01 quyển sổ màu hồng; 01 xe mô tô biển số 72C1-863.66, số máy 0115901, số khung 5814GY11587; 01 xe mô tô biển số 72C1- 24504, số máy 4036515, số khung 102496 là tài sản không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYÊT ĐỊNH

1. Tuyên bô: Nguyễn Văn O phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Căn cứ: Điểm n, o Khoản 2 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điêu 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự: Xử phạt: Nguyễn Văn O 08 (tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 07 tháng 02 năm 2020.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: toàn bộ số ma túy và những chất giám định không phải là ma túy trong vụ án và 03 nỏ thủy tinh; 05 con dao tự chế;

- Trả lại cho Nguyễn Văn O: 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số Imei 353337078790457; 11.000.000đ (mười một triệu đồng tiền Việt Nam); 01 quyển sổ màu hồng; 01 xe mô tô biển số 72C1-863.66, số máy 0115901, số khung 5814GY11587; 01 xe mô tô biển số 72C1-24504, số máy 4036515, số khung 102496.

Vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 147/BB.THA và biên lai thu tiền số 0001917 ngày 09-6-2020.

4. Án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 về án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000 đ (hai trăm ngàn đông) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 146/2020/HS-ST ngày 24/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:146/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về