Bản án 146/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, TP HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 146/2019/HS-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP

Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 136/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 161/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

TRẦN QUANG K; sinh ngày 12 tháng 12 năm 1975 tại Quảng Ngãi; nơi đăng ký thường trú: số nhà 342/19 đường Thoại Ngọc H, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Quang L và bà Đỗ Thị Kim A; có vợ: Nguyễn Ngọc Lan P và 02 con: cùng sinh năm 2013; nhân thân: Ngày 04/10/2017 Công an quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 20.000.000 đồng về hành vi tàng trữ hàng hóa là quần jean giả mạo nhãn hiệu “Levi’s”; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam: không. Bị cáo tại ngoại.(Có mặt)

Bị hại đồng thời là Nguyên đơn dân sự: Công ty “L”, trụ sở: 1155 Battery Street, S, C 94111, Hoa Kỳ.

Đại diện theo ủy quyền: Công ty Luật TNHH I

Địa chỉ trụ sở: tầng 5 tòa nhà Toserco, số 273 phố Kim M, phường C, quận B, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Đoàn Hồng S

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Phạm Thị N (Giấy ủy quyền số 711/2019/UQ-IPM ngày 20/11/2019) (Có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Công ty TNHH Hai Kim P, trụ sở: số nhà 102/62 đường Bình L, phường A quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Quang K, sinh năm 1975, nơi cư trú: số nhà 342/19 đường Thoại Ngọc H, phường A quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.(Có mặt)

2. Bà Nguyễn Ngọc Lan P, sinh năm 1985, nơi cư trú: số nhà 342/19 đường Thoại Ngọc H, phường A quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt)

3. Bà Nguyễn Thị Kim P1, sinh năm 1958; nơi cư trú: số 07 đường Nguyễn Văn Ngọc, phường E, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

4. Ông Bùi Văn T, sinh năm 1993, nơi cư trú: xóm Tôm, xã I, huyện K, tỉnh Hòa Bình. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 03/01/2019, Tổ công tác thuộc Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và chức vụ Công an quận Tân Bình tuần tra đến trước nhà số 306 đường Hồng L, Phường L, quận M thì phát hiện đối tượng Bùi Văn T điều khiển xe gắn máy biển số 59P1-943.06 vận chuyển 35 quần jean hiệu “Gravali”, 66 quần jean nam dài hiệu “Levi’s”. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, Bùi Văn T không xuất trình được hóa đơn chứng từ hợp pháp nên tổ công tác đã lập biên bản sự việc và thu giữ tang vật.

Quá trình làm việc, Bùi Văn T khai là nhân viên làm thuê cho Công ty TNHH may Hai Kim , địa chỉ tại số nhà 102/62 đường Bình L, phường A, quận B. Số hàng hóa bị thu giữ là của Trần Quang K giám đốc Công ty may Hai Kim P giao cho Trận chở từ Công ty may Hai Kim P ra sạp 58, 80 khu D Chợ Tân B để bán cho khách hàng.

Căn cứ lời khai của Bùi Văn T, Cơ quan Công an tiến hành kiểm tra, khám xét:

- Tại sạp số 58 khu D chợ Tân B. Kết quả thu giữ được 540 quần jean nam dài hiệu “Levi’s”.

- Tại sạp số 58 khu D chợ Tân B. Kết quả thu giữ được 160 quần jean nam ngắn hiệu “Levi’s” và 02 cuốn sổ ghi chép.

- Tại Công ty TNHH may Hai Kim P, địa chỉ số 102/62 đường Bình L, phường A, quận B. Kết quả thu giữ được 3300 quần jean nam dài hiệu “Levi’s”.

Quá trình điều tra, Trần Quang K khai nhận: Trần Quang K và vợ là Nguyễn Ngọc Lan P góp vốn thành lập công ty TNHH may Kim Hai P, trụ sở tại số 102/62 đường Bình L, phường A, quận B theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 0310279168 ngày 27/9/2010 của Sở kế hoạch đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh. K là người đại diện theo pháp luật của công ty và là người trực tiếp điều hành hoạt động của công ty. Công ty của K có đăng ký bảo hộ nhãn hiệu quần jean “Gravali” (Ngày 12/10/2018, Cục Sở hữu trí tuệ có quyết định về việc chấp nhận đơn và đang trong quá trình thẩm định nội dung). Để kinh doanh hàng hóa của công ty, vợ của K là P có đăng ký kinh doanh tại sạp số 80 khu D chợ Tân B và thuê bà Bùi Thị Đ bán hàng (số 41N8011383 ngày 11/02/2009 do UBND quận Tân Bình cấp).

Ngoài ra vào cuối năm 2018, Công ty còn mượn sạp số 58 khu D chợ Tân B của bà Nguyễn Thị Kim P1 để làm kho chứa quần áo. K thừa nhận số quần jean hiệu “Levi’s” bị thu giữ là hàng giả mạo nhãn hiệu “Levi’s”. Nguồn gốc là do K mua của những khách mang đến chào bán vào khoảng cuối tháng 12/2018, với giá: Quần jean nam dài nhãn hiệu “Levi’s” mua giá 55.000 đồng đến 58.000 đồng/cái (dự định bán với giá khoảng 65.000 đồng đến 67.000 đồng/cái); Quần jean nam ngắn nhãn hiệu “Levi’s” mua giá 52.000 đồng đến 55.000 đồng/cái (dự định bán với giá khoảng 57.000 đồng đến 58.000 đồng/cái). Ngày 03/01/2019 K giao số quần trên cho Bùi Văn T là nhân viên làm thuê theo thời vụ chở ra sạp tại chợ Tân Bình để chào bán cho khách hàng, nhưng trên đường T vận chuyển thì bị Công an phát hiện bắt giữ.

Việc mua số quần jean giả nhãn hiệu “Levi’s” để bán lại kiếm lời chỉ do một mình K thực hiện, K không nói cho vợ là Nguyễn Ngọc Lan P biết, hai người làm thuê là bà Bùi Thị Đ và ông Bùi Văn T cũng không biết nguồn gốc, xuất xứ của số quần Jean trên. Trần Quang K cũng không kê khai kinh doanh quần jean có nhãn hiệu “Levi’s” vào hoạt động của công ty TNHH may Hai Kim P.

Xác minh tại Ban quản lý chợ Tân B được biết sạp 58 khu D do bà Nguyễn Thị Kim P1 làm chủ, sạp 80 khu D do bà Nguyễn Ngọc Lan P (vợ K) đăng ký kinh doanh.

Bà Nguyễn Thị Kim P1 trình bày do cuối năm 2018 không có nhu cầu sử dụng nên bà đã cho K mượn sạp số 58 khu D chợ Tân B mượn làm kho chứa hàng hóa. K chỉ đóng tiền thuế kinh doanh tại sạp. Bà P1 không biết việc K buôn bán quần jean giả nhãn hiệu “Levi’s”.

Bà Nguyễn Ngọc Lan P trình bày bà chỉ đứng ra góp vốn thành lập công ty TNHH may Hai Kim P và đăng ký kinh doanh sạp số 80 khu D chợ Tân B. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tại công ty và sạp 80 đều do K điều hành. Bà P không biết việc K buôn bán quần jean giả nhãn hiệu “Levi’s”. Đối với Bùi Văn T và Bùi Thị Đ là người làm thuê cho K. Sau khi xảy ra sự việc, bà Bùi Thị Đ đã nghỉ việc, hiện không xác định được nơi cư trú nên không làm việc được. Bùi Văn T khai là người làm thuê và chỉ làm theo yêu cầu của K, không biết việc K buôn bán quần jean giả nhãn hiệu “Levi’s”.

Kiểm tra thực tế 02 cuốn sổ ghi chép bán hàng, kết quả thể hiện việc mua bán hàng hóa từ tháng 02/2017 đến tháng 02/2018, không thể hiện thông tin người mua, người bán. K khai số lượng hàng hóa mua bán trong sổ là của quần jean nhãn hiệu “Gravali”, không xác định được người mua, người bán là ai. K chưa bán được cái quần jean nhãn hiệu “Levi’s” nào. Do đó, không có cơ sở xác định số tiền thu lợi bất chính đối với Trần Quang K.

Xác minh tại Chi cục thuế quận Tân Phú, kết quả: Công ty TNHH may Hai Kim P có kê khai thuế giá trị gia tăng hàng quý từ năm 2017, nhưng công ty không nộp bảng kê bán ra, mua vào từ năm 2017, không xác định được công ty có thực hiện việc kê khai thuế đối với hàng hóa là quần jean nhãn hiệu “Levi’s” hay không. Ngoài ra, K khai nhận không kê khai kinh doanh quần jean có nhãn hiệu “Levi’s” vào hoạt động kinh doanh của công ty. Do đó, không đủ yếu tố để xem xét khởi tố Công ty TNHH may Kim Hai P có hành vi “Xâm hại quyền sở hữu công nghiệp”.

Xác minh tại Văn phòng đại diện Cục Sở hữu trí tuệ tại Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả quần jean nhãn hiệu “Levi’s” có chủ sở hữu là Công ty “L”, trụ sở tại Mỹ có đại diện sở hữu công nghiệp ban đầu tại Việt Nam là Công ty P & Associates, được Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn số 129473 ngày 14/7/2009 có hiệu lực đến ngày 23/11/2027, được đăng ký cho các sản phẩm thuộc nhóm 25, trong đó có quần jean và Giấy chứng nhận đăng ký nhãn số 2611 ngày 19/4/1991, có hiệu lực đến ngày 26/01/2021, được đăng ký cho các sản phẩm thuộc nhóm 25, trong đó có quần áo.

Đại diện theo ủy quyền của Công ty “L” hiện nay tại Việt Nam là công ty Luật TNHH I, xác định: Toàn bộ số quần jean nhãn hiệu “Levi’s” thu giữ của Công ty TNHH may Hai Kim P đều là giả mạo nhãn hiệu “Levi’s”, không phải là hàng hóa do “L” sản xuất hoặc ủy quyền sản xuất. Công ty TNHH may Hai Kim P không được “L” ủy quyền kinh doanh, buôn bán, phân phối hoặc nhập khẩu các sản phẩm mang nhãn hiệu “Levi’s” của “L” tại thị trường Việt Nam.

Tiến hành giám định nhãn hiệu “Levi Strauss & Co” có gắn trên quần jean thu giữ kết quả:

- Bản in trên 02 nhãn hiệu mẫu quần jean hiệu “Levi Strauss & Co” cần giám định ký hiệu A1, A2 (đã nêu ở mục II.1) so với bản in trên 02 nhãn hiệu Levi Strauss & Co dùng làm mẫu so sánh ký hiệu M1, M2 ( đã nêu ở mục II.2) không phải do cùng một chế bản in ra (Kết luận giám định số 624/KLGĐ-TT ngày 11/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

- Không đủ cơ sở kết luận giám định hình thái, cấu trúc, thành phần trên 02 nhãn hiệu cần giám định ký hiệu A1, A2 (đã nêu ở mục II.1) có đồng nhất với hình thái, cấu trúc, thành phần trên 02 nhãn hiệu mẫu so sánh ký hiệu M1, M2 hay không ( Kết luận giám định số 624/KLGĐ-TT ngày 11/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

Vật chứng vụ án:

- 33 quần jean hiệu “Gravali”, là tài sản của công ty TNHH may Hai Kim P, không liên quan đến vụ án, đã giao trả cho Trần Quang K.

- 01 xe gắn máy hiệu Honda Future biển số 59P1-943.06, là tài sản của K giao cho Bùi Văn T sử dụng để vận chuyển quần jean giả nhãn hiệu hiệu “Levi’s”.

- 02 cuốn sổ ghi chép, lưu kèm hồ sơ vụ án.

- 3906 quần jean nam dài nhãn hiệu “Levi’s” (Kết quả định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự là 100.000 đồng/cái, tổng cộng là 390.600.000 đồng).

- 160 quần jean nam ngắn nhãn hiệu “Levi’s’’ (Kết quả định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự là 60.000 đồng/cái, tổng cộng là 9.600.000 đồng).

Tổng giá trị số hàng vi phạm là 400.200.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 141/CT-VKS ngày 29 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Trần Quang K về tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” theo khoản 1 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát trình bày luận tội, cụ thể: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa, thì hành vi mua bán 3906 quần jean nam dài giả nhãn hiệu “Levi’s” và 160 quần jean nam ngắn giả nhãn hiệu “Levi’s (có tổng trị giá 400.200.000 đồng) của bị cáo đã phạm vào tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” được quy định tại khoản 1 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, trật tự quản lý kinh doanh, xâm phạm lợi ích của chủ thể đã được đăng ký bản quyền, quyền sở hữu công nghiệp đối với sản phẩm quần Jean hiệu “Levi’s’’ của công ty “L” được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam, gây thiệt hại về vật chất và uy tín của chủ thể bị xâm phạm. Bị cáo phạm tội do cố ý nên cần xử phạt bị cáo hình phạt phù hợp mới có tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng chưa gây ra thiệt hại, bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ căn cứ trên đề nghị áp dụng điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 300.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của Bị hại đồng thời là Nguyên đơn dân sự cho biết có gửi đơn yêu cầu bị cáo bồi thường các thiệt hại về vật chất, tinh thần và các chi phí để xử lý và khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra tổng cộng là 434.125.000 đồng. Tuy nhiên, hiện nay giữa bị hại đồng thời là Nguyên đơn dân sự và bị cáo đã thỏa thuận xong việc bồi thường. Bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền tổng cộng là 50.000.000 đồng. Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn và cũng đã nhận thức được hành vi sai trái nên bị hại không yêu cầu gì thêm đối với bị cáo.

Xét thấy việc thỏa thuận bồi thường thiệt hại giữa bị cáo và đại diện của Bị hại đồng thời là Nguyên đơn dân sự là phù hợp với quy định của pháp luật và tự nguyện nên đề nghị Hội đồng xem xét chấp nhận.

Về vật chứng vụ án:

- 33 quần jean hiệu “Gravali” do Công an thu giữ. Quá trình điều tra xác định là tài sản của công ty TNHH may Hai Kim P, không liên quan đến vụ án nên đã giao trả cho Trần Quang K. Hiện không có ai thắc mắc hay khiếu nại gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét lại.

- 01 xe gắn máy hiệu Honda Future biển số 59P1-943.06. Quá trình điều tra, xác định là tài sản của K đưa giao cho Bùi Văn T sử dụng làm phương tiện để vận chuyển quần jean giả nhãn hiệu hiệu “Levi’s” vào ngày 03/01/2019. Xét thấy đây là tài sản bị cáo dùng vào việc phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.

- 02 cuốn sổ ghi chép số liệu là chứng cứ của vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu giao cho Tòa án quận Tân Bình lưu vào hồ sơ vụ án.

- 3906 quần jean nam dài giả nhãn hiệu “Levi’s” và 160 quần jean nam ngắn giả nhãn hiệu “Levi’s là những vật nhà nước cấm lưu hành nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu và tiêu hủy.

Sau phần luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận, tranh tụng với Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo để chiếu cố giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhằm giúp cho bị cáo sửa chữa lỗi lầm của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo theo các tài liệu, chứng cứ được Công an quận Tân Bình lập, thì việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với bị cáo Trần Quang K về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, thẩm tra các tài liệu, chứng cứ, luận tội, tranh tụng; nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại đồng thời là Nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua việc thẩm tra các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo, bị hại đồng thời là Nguyên đơn dân sự, thì hành vi mua bán 3906 quần jean nam dài giả nhãn hiệu “Levi’s” và 160 quần jean nam ngắn giả nhãn hiệu “Levi’s (có tổng trị giá 400.200.000 đồng) của bị cáo là hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, trật tự quản lý kinh doanh, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm lợi ích của chủ thể đã được đăng ký bản quyền, quyền sở hữu công nghiệp đối với sản phẩm quần Jean hiệu “Levi’s’’ của công ty “L” được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam, gây thiệt hại về vật chất và uy tín của chủ thể bị xâm phạm. Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội do cố ý nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” được quy định tại khoản 1 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Đồng thời qua phần phân tích, đánh giá, nhận định của đại diện Viện kiểm sát trong phần luận tội, nhận thấy những căn cứ Viện kiểm sát viện dẫn làm cơ sở chứng minh hành vi phạm tội để đề nghị truy tố, xử phạt bị cáo như đã nêu trên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Mặc dù nhận thức được việc mua bán hàng hóa giả nhãn hiệu là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng vì tư lợi nên bị cáo đã cố ý phạm tội, vì vậy cần xét xử bị cáo hình phạt phù hợp mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Việc đại diện Viện kiểm sát căn cứ tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân bị cáo để đề nghị áp dụng điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của bị hại đồng thời là Nguyên đơn dân sự cho biết giữa bị hại và bị cáo đã thỏa thuận xong việc bồi thường. Bị hại đồng thời là Nguyên đơn dân sự đã bồi thường cho bị hại số tiền 50.000.000 đồng. Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn và cũng đã nhận thức được hành vi sai trái nên Bị hại đồng thời là Nguyên đơn dân sự không yêu cầu gì thêm đối với bị cáo. Xét thấy việc thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và đại diện của Bị hại đồng thời là Nguyên đơn dân sự là phù hợp với quy định của pháp luật và tự nguyện nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết lại như đề nghị của Viện kiểm sát.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 33 quần jean hiệu “Gravali”, là tài sản của công ty TNHH may Hai Kim P, không liên quan đến vụ án, đã giao trả cho Trần Quang K. Hiện không có ai thắc mắc hay khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không xem xét lại như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 01 xe gắn máy hiệu Honda Future biển số 59P1-943.06, là tài sản của K giao cho Trần Văn T sử dụng làm phương tiện vận chuyển quần jean giả nhãn hiệu “Levi’s vào ngày 03/01/2019. Xét thấy đây là tài sản dùng vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử tịch thu nộp ngân sách Nhà nước như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 02 cuốn sổ ghi chép (đã lưu vào hồ sơ vụ án) là chứng cứ của vụ án nên Hội đồng xét xử thống nhất tịch thu giao cho Tòa án nhân dân quận Tân Bình lưu vào hồ sơ vụ án như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 3906 quần jean nam dài giả nhãn hiệu “Levi’s” và 160 quần jean nam ngắn giả nhãn hiệu “Levi’s là những vật nhà nước cấm lưu hành nên Hội đồng xét xử tịch thu và tiêu hủy như đề nghị của Viện kiểm sát.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 226; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Luật phí, lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Trần Quang K phạm tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”.

Xử phạt: Phạt tiền Trần Quang K 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng về tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”.

[2] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 xe gắn máy hiệu Honda Future biển số 59P1-943.06, số khung: RLHJA02081Y-300483, số máy: 0300526 (tình trạng theo Phiếu nhập kho vật chứng của Công an quận Tân Bình).

Tịch thu và tiêu hủy: 3906 (ba ngàn chín trăm lẻ sáu) quần jean nam dài giả nhãn hiệu “Levi’s” và 160 (một trăm sáu mươi) quần jean nam ngắn giả nhãn hiệu “Levi’s (tình trạng theo Phiếu nhập kho vật chứng của Công an quận Tân Bình). Tịch thu giao cho Tòa án nhân dân quận Tân Bình lưu vào hồ sơ vụ án 02 cuốn sổ ghi chép (đã lưu vào hồ sơ vụ án).

[3] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sư có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015).

Hội đồng xét xử đã giải thích về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án cho đương sự theo quy định tại Điều 26 Luật Thi hành án (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015).

[4] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại đồng thời là Nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt, niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2499
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 146/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

Số hiệu:146/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về