Bản án 146/2019/HNGĐ-ST ngày 16/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 146/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 125/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 02 năm 2019 về việc “tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 216/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số183/2019/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1984; địa chỉ: ấp T, thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.

Bị đơn: Ông Đinh Phú N, sinh năm 1971; địa chỉ: ấp T, thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị D trình bày, thông qua mai mối, bà D và ông N kết hôn vào năm 2004, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn C , huyện C, tỉnh An Giang vào ngày 27/10/2004. Trong thời gian chung sống, vợ chồng có sinh 01 con chung tên Đinh Phú H, sinh ngày 13/12/2004, đang được ông N chăm sóc, nuôi dưỡng. Bà D, ông N thường xuyên mâu thuẫn, cãi nhau do bất đồng quan điểm. Vợ chồng không còn sống chung khoảng hơn 06 tháng nay.

Do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn nên bà D yêu cầu được ly hôn với ông N; bà D đồng ý để ông N chăm sóc, nuôi dạy cháu H,  bà D tự nguyện cấp dưỡng cho cháu H mỗi tháng 1.000.000 đồng; không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện là: bản sao trích lục kết hôn số 317/TLKH-BS ngày 09/5/2019 của Ủy  ban  nhân  dân thị  trấn  C  với  giấy  chứng  nhận  kết  hôn  số  124,  ngày 27/10/2004; bản sao trích lục khai sinh của Đinh Phú H, sinh ngày 13/12/2004 do Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện C cấp.

Bị đơn ông Đinh Phú N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án nên không ghi nhận được ý kiến.

Tại phiên tòa,

- Bà D trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Ngoài các tài liệu, chứng cứ đã cung cấp cho Tòa án, bà D không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân, bà D và ông N chung sống có đăng ký kết hôn nên quan hệ hôn nhân giữa bà D, ông N hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Xét thấy, từ khi bà D gửi đơn khởi kiện, ông N biết nhưng không có ý kiến phản hồi và không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn hạnh phúc vợ chồng. Do đó, đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà D đối với ông N theo Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về con chung, đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà D, giao cháu H cho ông N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng; ghi nhận sự tự nguyện của bà D về việc cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Về tài sản chung, nợ chung, đề nghị không đề cập giải quyết.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xem xét, quyết định.

 NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Bà Nguyễn Thị D khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Đinh Phú N. Đồng thời, ông N cư trú trên địa bàn huyện C. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông Đinh Phú N đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông N theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

 [2] Về nội dung:

 [2.1] Về hôn nhân: Bà D và ông N tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa bà D, ông N là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Bà D xác định, trong thời gian chung sống, do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau nên vợ chồng thường xuyên cãi vã. Cho nên, bà D yêu cầu được ly hôn với ông N.

Xét thấy, xuất phát từ mâu thuẫn trong thời gian chung sống, bà D và ông N không còn sống chung cách nay hơn 06 tháng. Bên cạnh đó, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án cho ông N nhưng ông N không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của bà D. Cho nên, có căn cứ xác định mâu thuẫn giữa bà D, ông N là trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà D đối với ông  N  theo  quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Bà D xác định trong thời gian chung sống, vợ chồng có sinh 01 con chung tên Đinh Phú H, sinh ngày 13/12/2004, đang do ông N nuôi dưỡng. Bà D chấp nhận giao cháu H cho ông N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

Xét thấy, cháu H đang được ông N chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển nhận định; bà D đồng ý để cháu H cho ông N chăm sóc, nuôi dưỡng. Bên cạnh đó, khi Tòa án tiến hành ghi nhận ý kiến thì cháu H có nguyện vọng được sống với ông N trong trường hợp bà D, ông N ly hôn. Do đó, để đảm bảo nhận định cuộc sống cho cháu H, giúp cháu H phát triển tốt về thể chất, tinh thần, Hội đồng xét xử giao cháu H cho ông N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, bà D tự nguyện cấp dưỡng nuôi cháu H mỗi tháng 1.000.000 đồng. Xét mức cấp dưỡng mà bà D đưa ra phù hợp với nhu cầu thiết yếu, chi phí cần thiết cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ cùng lứa tuổi với cháu H và quy định của pháp luật có liên quan. Vì vậy, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bà D về việc cấp dưỡng nuôi dạy cháu H mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu H thành niên, có khả năng lao động nuôi sống bản thân.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà D xác định không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên không đề cập giải quyết.

[2.4] Về án phí: Bà D phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ông N không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các  Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; các Điều 144, 147, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu  miễn giảm thu nộp  quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị D.

1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị D được ly hôn với ông Đinh Phú N.

Giấy chứng nhận kết hôn số 124, ngày 27/10/2004 do Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang cấp cho bà Nguyễn Thị D và ông Đinh Phú N không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Ông Đinh Phú N được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Đinh Phú H, sinh ngày 13/12/2004. Bà Nguyễn Thị D tự nguyện cấp dưỡng nuôi dạy con chung mỗi tháng 1.000.000 (một triệu) đồng kể từ ngày 16/7/2019 cho đến khi cháu Đinh Phú H thành niên và có khả năng lao động.

Ông Đinh Phú N cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà Nguyễn Thị D trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị D phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí  đã nộp  300.000 (ba  trăm  nghìn)  đồng theo biên lai thu tiền án phí số TU/2016/0012568 do Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang cấp ngày 12 tháng 02 năm 2019; bà Nguyễn Thị D đã nộp đủ án phí.

Ông Đinh Phú N không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Nguyễn Thị D có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

 Riêng thời hạn kháng cáo của ông Đinh Phú N gân được tính là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án đựợc thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các  Điều 6  7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thờii hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại  Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 146/2019/HNGĐ-ST ngày 16/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:146/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về