Bản án 146/2018/HS-ST ngày 24/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ G, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 146/2018/HS-ST NGÀY 24/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 24 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnhKiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 190/2018/HS-ST ngày 8 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Phát T, sinh năm 1996, tại huyện T2, tỉnh Kiên Giang. Nơi cư trú: ấp 1, xã P, huyện T2, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn E, sinh năm 1957 và bà Hồng Tuyết T3, sinh năm 1962; Anh chị em ruột có 02 người: lớn nhất sinh năm 1982, nhỏ nhất sinh năm 1989; Vợ Dương Thị Si, sinh năm 1998; con có 01 người sinh năm 2017; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/4/2018; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Đặng Tuấn K, sinh năm 1978 (vắng mặt)

Địa chỉ: Số 23A đường Đ, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

2. Phạm Văn T4, sinh năm 1962 (vắng mặt)

Địa chỉ: Số 19 đường C, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Phát T là người nghiện ma túy từ năm 2017. Nguồn ma túy mà bị cáo Thành có để sử dụng là được 01 người thanh niên tên Tuấn (chưa xác định tên và địa chỉ) ở Tà Niên, huyện T2, tỉnh Kiên Giang cung cấp và sử dụng chung. Vào khoảng 7 giờ 40 phút, ngày 24/4/2018 bị cáo T đi đến khu vực Tà Niên, huyện T2, tỉnh Kiên Giang uống cà phê và quen với một người thanh niên tên Sang (chưa xác định tên và địa chỉ) và mua 01 (một) bịch ma túy (loại ma túy đá) với giá 800.000 đồng. Sau khi mua xong T bỏ vào túi quần bên trái và đến khoảng 14 giờ cùng ngày thì T đi vào quán Internet tại khu vực đường Phùng Hưng, phường B, thành phố G để chơi game.

Vào khoảng 18 giờ 05 phút, ngày 24/4/2018 T đang đi trên đường Phùng Hưng, phường B, thành phố G thì Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố G kết hợp Công an phường B kiểm tra bắt quả tang, thu giữ trong túi quần bên trái của bị cáo 01 (một) bịt nylon trong suốt được hàn kín, bên trong có chứa các hạt rắn màu trắng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, đã qua sử dụng.

* Vật chứng thu được:

- 01 bịch nylon trong suốt, được hàn kín, bên trong có chứa các hạt rắn màu trắng.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, đã qua sử dụng.

* Tại bản Kết luận giám định số: 336/KL-KTHS, ngày 30 tháng 4 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang kết luận: Các hạt tinh thể không đồng nhất chứa trong 01 (một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Khối lượng là 1,1716 gram.

* Tại bản cáo trạng số: 132/CT-VKSTPRG ngày 07 tháng 8 năm 2018, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Phát T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thống nhất với kết luận giám định về chất ma túy của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang; đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra Công an thành phố G và bản cáo trạng truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

- Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 38, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Nguyễn Phát T từ 01(một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự; Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định vụ 336/2018 ngày 02/5/2018 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng Nam, người chứng kiến Trương Xuân Đỡ và hình dấu tròn của Phòng kỷ thuật hình sự - Cong an tỉnh Kiên Giang;

Trả lại cho Nguyễn Phát T 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen Imel: 35335309186253, đã qua sử dụng không dùng vào việc phạm tội. Đã trảxong.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, bản thân bị cáo biết ăn năn, hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sửa đổi bản thân, sớm trở về gia đình để làm người công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố G, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Do bị cáo Nguyễn Phát T có nhu cầu sử dụng ma túy nên đã thỏa thuận với một người thanh niên không rõ lai lịch để mua ma túy về sử dụng. Ngày 24/4/2018 bị cáo T mua của một người thanh niên tên S (Không rõ lai lịch) 01 (một) bịch ma túy (ma túy đá) với giá 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng) tại quán cà phê thuộc khu vực Tà Niên, huyện T2, tỉnh Kiên Giang. Đến 18 giờ, 05 phút cùng ngày, bị cáo đang đi trên đường Phùng Hưng, phường B, thành phố G thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy bắt qua tang. Theo các kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự: 01 (một) bịch nylon trong suốt, được hàn kín, bên trong có chứa các hạt rắn màu trắng, có khối lượng1,1716 gram, là chất ma túy, loại Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, SST 67 Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013.

Tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

d) Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;

đ) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 05 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;

e) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam;

g) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam;

h) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 10 mililít đến dưới 100 mililít;

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Phát T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như viện dẫn trên.

[3] Về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm phạm pháp luật, trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất về ma túy; bị cáo nhận thức rõ tác hại của việc sử dụng ma túy là gây tổn hại đến thể chất, tinh thần của con người, nó cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác, ảnh hưởng đến tình hình trật tự, trị an trong khu vực, bị cáo vẫn cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, do đó sau khi nghị án Hội đồng xét xử thống nhất xử phạt bị cáo bằng mức án bằng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời cũng nhằm tuyên truyền, phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng;

- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; dođó bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Qua xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thống nhất xử phạt bị cáo mức án tương xứng đủ thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt, sống có ích cho xã hội và cũng nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội biết ăn năn, hối cải.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật. [6] Về biện pháp tư pháp:

Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định vụ 336/2018 ngày 02/5/2018 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng Nam, người chứng kiến Trương Xuân Đỡ và hình dấu tròn của Phòng kỷ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang;

Trả lại cho Nguyễn Phát T 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen imel: 35335309186253, đã qua sử dụng không dùng vào việc phạm tội. Đã trả xong.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 38, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; tuyên bố bị cáo Nguyễn Phát T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo Nguyễn Phát T 01 (Một) năm tù, thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo bị tạm giữ (Ngày 24/4/2018).

2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46 và 47 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định vụ 336/2018 ngày 02/5/2018 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng Nam, người chứng kiến Trương Xuân Đỡ và hình dấu tròn của Phòng kỷ thuật hình sự - Cong an tỉnh Kiên Giang;

Số vật chứng trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự thành phố G quản lý theo Quyết định chuyển vật chứng số 20/QĐ-VKSTPRG ngày 07/8/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; buộc bị cáo Nguyễn Phát T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngàykể từ ngày tuyên án (24/9/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 146/2018/HS-ST ngày 24/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:146/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về