TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 145/2020/HS-PT NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Ngày 30/12/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 122/2020/TLPT-HS ngày 26/11/2020 đối với bị cáo Hoàng Thị P cùng 05 bị cáo khác do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 63/2020/HS-ST ngày 16/10/2020 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
- Các bị cáo trong vụ án bị kháng nghị:
1. Hoàng Thị P, sinh ngày 01/6/1976 tại huyện B, tỉnh Quảng Bình; Nơi cư trú: Thôn K, xã H, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn H và bà Nguyễn Thị G (đã chết); có chồng là anh Hoàng Văn C; chưa có con; tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/4/2020 đến ngày 29/4/2020 được thay thế biện pháp bảo lĩnh. Có mặt tại phiên toà.
2. Hoàng Đình T, sinh ngày 12 tháng 10 năm 1979 tại huyện B, tỉnh Quảng Bình; Nơi cư trú: Thôn B, thị trấn H, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Q và bà Hoàng Thị A; có vợ là chị Hoàng Thị V và có 03 đứa con (đứa lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2016); tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/4/2020 đến ngày 30/4/2020 được thay thế biện pháp bảo lĩnh. Có mặt tại phiên toà.
3. Dương Văn T1, sinh ngày 02 tháng 7 năm 1989 tại huyện B, tỉnh Quảng Bình; Nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn K và bà Thái Thị T; chưa có vợ, con; tiền án:
Không; tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/4/2020 đến ngày 30/4/2020 được thay thế biện pháp bảo lĩnh. Có mặt tại phiên toà.
4. Phan Thị Thu H, sinh ngày 14 tháng 6 năm 1996 tại huyện Bố T, tỉnh Quảng Bình;Nơi cư trú: Tiểu khu 7, thị trấn H, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Thanh T (đã chết) và bà Dương Thị T; có chồng là anh Nguyễn Xuân H và có 02 đứa con (đứa lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2018); tiền án: Không; tiền sự: Ngày 16/02/2020 Công an huyện Bố Trạch xử phạt 1.500.000đồng về hành vi “Bán bản đề ấn phẩm khác cho việc đánh lô đề”. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 08/4/2020 đến ngày 14/4/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt tại phiên toà.
5. Phạm Thị B, sinh ngày 08 tháng 9 năm 1983 tại huyện B, tỉnh Quảng Bình; Nơi cư trú: Thôn M, xã V, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Xuân C và bà Nguyễn Thị C; có chồng là anh Phan Văn T (đã ly hôn) và có 01 đứa con sinh năm 2002; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/4/2020 đến ngày 29/4/2020 được thay thế biện pháp bảo lĩnh. Có mặt tại phiên toà.
6. Lưu Thị H1, sinh ngày 22 tháng 8 năm 1979 tại huyện B, tỉnh Quảng Bình; Nơi cư trú: Thôn C, xã N, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Văn B (đã chết) và bà Lê Thị T; có chồng là anh Võ Thanh N và có 03 đứa con (đứa lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2017); tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 08/4/2020 đến ngày 14/4/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt tại phiên toà.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bị kháng nghị:
Ông Nguyễn Minh N, sinh ngày 20/5/1974; Địa chỉ: Thôn B, thị trấn H, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
- Người làm chứng:
Chị Ngô Thị N1; Địa chỉ: Tiểu khu A, thị trấn H, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.
Anh Võ Thanh H; Địa chỉ: Thôn C, xã N, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.
Anh Dương Văn T; Địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.
Chị Hoàng Thị V; Địa chỉ: Thôn B, thị trấn H, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ ngày 08/4/2020, Dương Văn T1, Hoàng Đình T, Hoàng Thị P, Phạm Thị B, Lưu Thị H1 đến trụ sở Công ty TNHH T thuộc thôn C, thị trấn H, huyện B, tỉnh Quảng Bình do Nguyễn Minh N làm giám đốc chơi thì T1, T1, P, B, H và N rủ nhau dùng bài tú lơ khơ đánh bài cào tố được thua bằng tiền, việc đánh bài bằng hình thức: Trước khi chia bài mỗi người chơi phải chung vào giữa sòng 100.000 đồng (gọi là mậu), sau đó chia cho mỗi người 03 quân bài rồi bắt đầu tố, mỗi lần tố không thấp hơn 100.000 đồng và không quá 500.000 đồng, mỗi ván chơi không được tố quá 3 vòng, ai không tố thì úp bài. Đánh được khoảng 04 ván thì Nguyễn Minh N nghỉ không đánh nữa rồi đi ra ngoài. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày thì Phan Thị Thu H đến cùng tham gia đánh bài. Các đối tượng đánh đến khoảng 15 giờ 15 phút cùng ngày thì bị lực lượng Công an huyện Bố Trạch bắt quả tang, thu giữ giữa sòng số tiền 21.200.000 đồng, thu tại Phan Thị Thu H số tiền 4.500.000 đồng và thu tại Lưu Thị H1 số tiền 2.300.000 đồng. Tổng cộng số tiền mà các bị cáo sử dụng để đánh bạc bị thu giữ là 28.000.000 đồng (Trong đó tiền của Hoàng Thị P 9.000.000 đồng, Hoàng Đình T 8.200.000 đồng, Dương Văn T1 3.000.000 đồng, Phạm Thị B 3.000.000 đồng, Lưu Thị H1 2.300.000 đồng, Phan Thị Thu H 2.000.000 đồng và Nguyễn Minh N 500.000 đồng). Ngoài ra cơ quan điều tra còn thu giữ thêm một số tài sản như điện thoại di động, xe mô tô, xe ô tô, tiền mặt của các bị cáo, nhưng qua điều tra xác định số tài sản này không liên quan đến việc đánh bạc nên đã trả lại cho các bị cáo.
Cáo trạng số: 56/CT- VKSBT ngày 03/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã truy tố các bị cáo Hoàng Thị P, Hoàng Đình T, Dương Văn T1, Phan Thị Thu H, Phạm Thị B và Lưu Thị H1 về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 63/2020/HS-ST ngày 16 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã tuyên bố các bị cáo Hoàng Thị P, Hoàng Đình T, Dương Văn T1, Phan Thị Thu H, Phạm Thị B và Lưu Thị H1 phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1, Điều 51 BLHS đối với các bị cáo Hoàng Thị P, Hoàng Đình T, Dương Văn T1, Phan Thị Thu H, Phạm Thị B và Lưu Thị H1; áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 BLHS đối với các bị cáo Hoàng Thị P, Hoàng Đình T, Phan Thị Thu H, Phạm Thị B và Lưu Thị H1; áp dụng thêm Điều 65 BLHS đối với Hoàng Thị P, Hoàng Đình T và Dương Văn T1; áp dụng thêm Điều 36 BLHS đối với Phan Thị H; áp dụng thêm Điều 35 BLHS đối với Phạm Thị B và Lưu Thị H1. Xử phạt:
+ Hoàng Thị P 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (16/10/2020).
+ Hoàng Đình T 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (16/10/2020).
+ Dương Văn T 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (16/10/2020).
+ Phan Thị Thu H 15 tháng cải tạo không giam giữ nhưng được trừ đi 21 ngày (07 ngày tạm giam x 3 = 21 ngày);
+ Phạm Thị B 20.000.000 đồng;
+ Lưu Thị H1 20.000.000 đồng.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên giao các bị cáo cho chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo, cải tạo không giam giữ; tuyên miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo; tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 09/11/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình có Quyết định kháng nghị số: 2839/QĐ- VKSQB ngày 06/11/2020, quyết định kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm số: 63/2020/HS-ST ngày 16 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình với nội dung: Các bị cáo Hoàng Thị P, Hoàng Đình T, Dương Văn T1, Phan Thị Thu H, Phạm Thị B và Lưu Thị H1 đã cùng nhau đánh bạc tại trụ sở Công ty do Nguyễn Minh N làm giám đốc; N biết rõ việc đánh bài ăn tiền nhưng vẫn cho các bị cáo đánh bạc tại trụ sở công ty. Tổng số tiền mà các bị cáo dùng để đánh bạc là 28.000.000 đồng. Như vậy Nguyễn Minh N phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm theo hướng hủy án sơ thẩm để điều tra làm rõ tội “Tổ chức đánh bạc” của Nguyễn Minh N.
-Tại phiên toà phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình.
- Các bị cáo đều khai nhận do có quen biết anh N nên khi đến xưởng gỗ của anh N chơi thì gặp nhau rồi rủ nhau đánh bài chứ không hề có ai hẹ hò, rủ rê trước; quá trình đánh bài không có thu bất cứ khoản tiền gì và cũng không bố trí người canh gác. Lúc đầu anh N có vào đánh khoảng 2 đến 3 ván thì không đánh nữa và đi về nhà.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Minh N khai nhận: Ngày 08/4/2020 Nguyễn Minh N đang ở trong xưởng gỗ thì có nhiều người đến (có người đến xem để mua gỗ, có người đến chơi), đến khoảng 12 giờ thì một số người rủ nhau đánh bài, do có quen biết nên ông N không nói gì, khi thấy các bị cáo đang đánh bài thì ông N vào tham gia đánh 1 đến 2 ván rồi đi về nhà ăn cơm, đến khoảng hơn 15 giờ chiều thì nghe Công an gọi điện yêu cầu đến xưởng gỗ để lập biên bản về việc bắt quả tang một số người đang đánh bài trong xưởng gỗ. Ông N thừa nhận việc để cho các bị cáo đánh bạc trong xưởng gỗ do ông quản lý là sai, tuy nhiên do quen biết nên khi thấy họ đánh bạc thì ông không nói gì, ông N nghĩ họ chỉ đánh một lúc rồi về nên Ông đã bỏ về trước; ông N không hề rủ rê hoặc thu một khoản lợi ích gì từ việc đánh bạc cả.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ ngày 08/4/2020 Dương Văn T1, Hoàng Đình T Hoàng Thị P, Phạm Thị B, Lưu Thị H đến trụ sở Công ty TNHH T4thuộc Thôn C, thị trấn H, huyện B do Nguyễn Minh N làm giám đốc chơi thì T1, T, P, B, Lưu Thị H1 và N rủ nhau đánh bài ăn tiền bằng hình thức “Cào tố” và tất cả đều đồng ý. Nguyễn Minh N vào tham gia đánh được khoảng 2 đến 3 ván thì nghỉ không đánh nữa và đi về nhà. Khoảng 14 giờ cùng ngày thì Phan Thị Thu H đến cùng tham gia đánh bài. Các bị cáo Dương Văn T1, Hoàng Đình T, Hoàng Thị P, Phạm Thị B, Lưu Thị H1 và Phan Thị Thu H ngồi đánh bài đến khoảng 15 giờ 15 phút cùng ngày thì bị Công an huyện Bố Trạch bắt giữ. Số tiền mà các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 28.000.000đồng (Trong đó thu giữa sòng bạc là 21.200.000đồng và thu giữ tại các bị cáo số tiền mang theo để đánh bạc là 6.800.000đồng). Với hành vi trên, Bản án sơ thẩm tuyên bố các bị cáo Hoàng Thị P, Hoàng Đình T, Dương Văn T1, Phan Thị Thu H, Phạm Thị B và Lưu Thị H1 phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.
[2]. Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình Yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm theo hướng hủy án sơ thẩm để điều tra làm rõ tội “Tổ chức đánh bạc” của Nguyễn Minh N.
Hội đồng xét xử thấy: Trong vụ án này, các bị cáo Hoàng Thị P, Hoàng Đình T, Dương Văn T1, Phan Thị Thu H, Phạm Thị B và Lưu Thị H1 đánh bài ăn tiền tại xưởng gỗ (Trụ sở Công ty TNHH T) do Nguyễn Minh N làm giám đốc. Việc Nguyễn Minh N đồng ý cho các bị cáo đánh bạc tại trụ sở công ty (Xưởng gỗ) của mình là sai và có dấu hiệu là “Đồng phạm” của tội “Đánh bạc”. Tuy nhiên, Cơ quan điều tra đã kết luận hành vi của Nguyễn Minh N chưa đủ yếu tố cấu thành tội đánh bạc, nên đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị định 167/NĐ-CP của Chính phủ. Xét thấy hành vi trên của Nguyễn Minh N đã bị Cơ quan điều tra xử lý (Xử phạt hành chính), Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình không Kháng nghị để điều tra làm rõ hành vi “Đánh bạc” của Nguyễn Minh N nên Tòa án không có thẩm quyền xem xét theo thủ tục phúc thẩm đối với hành vi đánh bạc của Nguyễn Minh N.
Xét nội dung của Kháng nghị về việc đề nghị Tòa án hủy án sơ thẩm để điều tra làm rõ hành vi “Tổ chức đánh bạc” của Nguyễn Minh N thấy rằng: Điều 322. Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, quy định:
1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên …; b) ...;
c) Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng một lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên; ….
Theo quy định của điều luật thì các điều kiện cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc” tại khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự phải có hai yếu tố đó là: phải có hành vi “Tổ chức” và phải “Thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm đ khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự”.
Theo kết quả điều tra thì Nguyễn Minh N không phải là người cù rủ, rủ rê, lôi kéo các bị cáo đến xưởng gỗ để đánh bạc; không có sự chuẩn bị, bàn bạc, sắp xếp o vệ; không lắp đặt các phương tiện nghe, kế hoạch hoặc bố trí người canh gác, bả 5 nhìn để theo dõi, cảnh giới; không vì mục đích trục lợi (không thu “tiền xâu” hoặc bất cứ một khoản tiền nào) từ các con bạc… Do đó không có căn cứ để quy kết Nguyễn Minh N đã có hành vi “Tổ chức đánh bạc”. Vì vậy, mặc dù tổng số tiền mà các bị cáo sử dụng để đánh bạc trong cùng một lần bị cơ quan điều tra thu giữ trên 20.000.000 đồng (28.000.000 đồng), nhưng do Nguyễn Minh N không có hành vi “Tổ chức đánh bạc” nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc” theo như nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát. Vì vậy, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3]. Về án phí phúc thẩm: Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận Quyết định kháng nghị số: 2839/QĐ - VKSQB ngày 06/11/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình, giữ nguyên toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số: 63/2020/HSST ngày 16 /10/ 2020 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
2. Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (30/12/2020).
Bản án 145/2020/HS-PT ngày 30/12/2020 về tội tổ chức đánh bạc
Số hiệu: | 145/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về