Bản án 145/2020/HS-PT ngày 20/02/2020 về tội cưỡng đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 145/2020/HS-PT NGÀY 20/02/2020 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 20 tháng 02 năm 2020, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 941/2019/TLHS- PT ngày 23 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Bùi Thị H1 do có kháng nghị của Viện kiểm sát huyện TO đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 của Tòa án huyện TO, thành phố Hà Nội.

- Các bị cáo bị kháng nghị:

1. Bùi Thị H1, sinh năm 1976;

Nơi ĐKHKTT: Thôn TL, xã BH, huyện TO, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn) 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn H2, sinh năm 1936 và con bà Nguyễn Thị T2 (Đã chết); có chồng là Hoàng Văn N1 (Đã chết) và 01 con sinh năm 1999; Tiền án, tiền sự: Ngày 29/5/2007 Tòa án nhân dân thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Bị bắt tạm giữ từ ngày 17/8/2019 đến ngày 26/8/2019, hiện đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; (Có mặt).

2. Nguyễn Duy T1, sinh năm 1970;

Nơi ĐKHKTT: Tổ 14, phường ĐM, quận HĐ, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn) 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Duy C1 (Đã chết) và con bà Nguyễn Thị Đ1 (Đã chết); có vợ là Ngô Thị X1, sinh năm 1973 và có 02 con, con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 2008; Bị bắt tạm giữ từ ngày 17/8/2019 đến ngày 26/8/2019, hiện đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; (Có mặt).

- Bị hại: Anh Nguyễn Đình T2, sinh năm 1969; Địa chỉ: Thôn Đ, xã CV, huyện TO, thành phố Hà Nội (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng ngày 10/8/2019, thông qua mạng xã hội zalo, ông Nguyễn Đình T2 sinh năm 1969, trú tại thôn Đ, xã CV làm quen Bùi Thị H1 sinh năm 1976, trú tại thôn TL, xã BH, huyện TO, thành phố Hà Nội. Qua nói chuyện điện thoại Bùi Thị H1 nhận thấy ông T2 có tình cảm với mình, nên tối 15/8/2019 ông T2 gọi điện thoại mời H1 đi uống nước thì H1 hẹn sang tối hôm sau vì bận việc. Khoảng 20 giờ tối 16/8/2019, khi H1 đang ngồi ăn cơm tại nhà mình cùng Nguyễn Duy T1, sinh năm 1970, trú tại tổ 14, phường ĐM, quận HĐ thì ông T2 gọi điện lại cho H1, H1 đồng ý. Ngay sau đó H1 nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của ông T2 bằng thủ đoạn: H1 sẽ đi chơi cùng ông T2 ở khu vực thị trấn KB, huyện TO, nếu ông T2 rủ thì H1 sẽ vào nhà nghỉ cùng ông T2 ở khu vực thị trấn KB, sau đó H1 nhắn tin thông báo cho T1 biết số phòng của nhà nghỉ để T1 sẽ nhận là người nhà bên chồng của H1 vào bắt quả tang, rồi ép buộc ông T2 đưa tiền cho T1, được H1 bàn bạc thì T1 đồng ý cùng thực hiện để cả hai cùng có tiền tiêu xài.

Khoảng 20 giờ 30 phút tối 16/8/2019, ông T2 đi xe mô tô biển kiểm soát 29X7 - 360.50 đến đón H1 ở khu vực cầu TB, xã BH, huyện TO rồi đi xuống thị trấn KB để uống cà phê. Sau khi uống cà phê thì ông T2 bảo H1 vào nhà nghỉ để tâm sự, H1 đồng ý. Ông T2 chở H1 vào nhà nghỉ Omely ở khu vực Cây Sữa, thuộc tổ 01, thị trấn KB gặp quản lý nhà nghỉ là ông Cao Thanh D1, sinh năm 1959 liên hệ thuê phòng thì được ông D1 đưa cho chìa khóa phòng 222. Vào phòng 222 ông T2 đi tắm sau đó không mặc quần áo lên giường nằm đắp chăn, còn H1 cũng đi tắm và chỉ mặc quần lót rồi ra ghế ngồi nói chuyện với ông T2. Lúc này H1 nhắn tin địa chỉ nhà nghỉ và số phòng cho T1. Khoảng 05 phút sau T1 đến nhà nghỉ Omely, khi gặp ông D1 thì T1 giới thiệu là chồng của H1 và đề nghị ông D1 cho phép lên kiểm tra phòng 222 vì nghi ngờ vợ có quan hệ bất chính với người khác, ông D1 đồng ý. T1 lên gõ cửa phòng 222 rồi gọi “H1 ơi”, nghe thấy giọng của T1 thì H1 ra mở cửa để T1 đi vào phòng, ngay khi vào trong phòng thấy ông T2 ngồi trên giường đắp chăn ngang bụng, còn H1 vẫn đứng thì T1 nói “Bố mày là anh chồng cái H1, chúng mày lôi nhau vào đây làm gì, hôm nay tao bắt quả tang chúng mày”. Ông T2 xin T1 thì T1 dùng tay đánh nhẹ 01 phát vào vùng cổ, vai của ông T2 rồi đẩy ông T2 nằm ra giường, H1 nói “Anh ơi, đây là bạn em, anh tha cho bọn em”. Sau đó ông T2 và H1 mặc quần áo rồi tiếp tục xin T1 thì T1 hỏi ông T2 “giờ mày muốn giải quyết thế nào ? ”, do muốn T1 giữ kín việc quan hệ bất chính nên ông T2 lấy ví tiền của mình ở túi quần ra rồi lấy hết số tiền có trong ví là 1.6000.000 đồng, một tay ông T2 cầm ví, một tay cầm tiền và nói “Đây em có hơn triệu, gần hai triệu, anh cầm giúp, anh cho em giải quyết tình cảm ”. T1 nói “ngần này không đủ”, ông T2 nói “Anh cứ cầm cho em, em còn từng này, trong ví chỉ còn chứng minh thư thôi ” và đưa ví cho T1, T1 cầm ví kiểm tra rồi để lên bàn, còn số tiền T1 cất vào trong người. Lúc này H1 đứng phía sau ông T2 giơ hai ngón tay lên và nói khẩu hiệu với T1 “Anh ơi, phải hai mươi triệu ”, T1 hiểu ý yêu cầu ông T2 gọi điện về bảo người nhà mang thêm 20.000.000 đồng lên để giải quyết, ông T2 gọi điện cho cháu là anh Nguyễn Trung Thụ, sinh năm 1982 trú tại thôn Đ, xã CV để vay tiền, nhưng ông T2 không nói cho anh Thụ biết lý do vay tiền, anh Thụ đồng ý cho ông T2 vay 10.000.000 đồng. Do không vay được đủ tiền ông T2 xin T1 cho giảm số tiền xuống, nhưng T1 không đồng ý nên ông T2 nhờ H1 đi cắm chiếc xe mô tô của ông T2 lấy 10.000.000 đồng. H1 đi xe của ông T2 theo quốc lộ 21B xuống đến địa phận xã Phương Trung, huyện TO nhưng không thấy hiệu cầm đồ nào nên quay lại nhà nghỉ. Lúc này T1 yêu cầu ông T2, H1 đi vào nhà vệ sinh của phòng 222 để chụp ảnh làm bằng chứng việc ông T2, H1 vào nhà nghỉ cùng nhau, khi chụp ảnh thì ông T2, H1 vẫn mặc quần áo. Tiếp đó T1 để cho ông T2 đi về lấy tiền và đe dọa nếu ông T2 không quay lại thì T1 sẽ đăng tải hình ảnh vừa chụp lên mạng internet. Ông T2 đi xe taxi về nhà anh Thụ vay tiền khoảng 20 - 30 phút sau quay lại nhà nghỉ, ông T2 đưa cho T1 9.000.000 đồng và nói là 10.000. 000 đồng, T1 nhận tiền của ông T2 nhưng không kiểm tra lại và tiếp tục yêu cầu ông T2 phải đưa thêm 5.000.000 đồng nữa, ông T2 xin thì T1 giảm xuống 3.000. 000 đồng. Do không còn tiền nên ông T2 đề nghị xuống vay ông D1 ở dưới quầy lễ tân, rồi cả ông T2, T1, H1 cùng đi xuống gặp ông D1 nhưng ông D1 không có tiền cho ông T2 vay. Tuy không biết nội dung ông T2 muốn vay tiền để làm gì, nhưng thấy T1 nói to và cả ông D1, ông T2 muốn giải quyết nhanh tránh ảnh hưởng, nên đã thống nhất việc ông T2 sẽ để lại chiếc xe mô tô của ông T2 ở nhà nghỉ, hôm sau ông T2 mang 3.000.000 đồng xuống nhà nghỉ trả cho T1 thì được lấy xe về, ông T2 sẽ viết giấy cắm xe cho ông D1, nhưng thực tế ông D1 không đưa tiền cho ông T2, ông D1 chỉ làm chứng việc ông T2 có nhận nợ T1 3.000.00 đồng. Tiếp đó các bên viết giấy cầm cố xe rồi cùng ký vào giấy, riêng T1 ký giấy với tên giả là Nguyễn Hoàng Nam. Sau đó T1 và H1 đi về, còn ông T2 đến Công an huyện TO trình báo sự việc. Trên cơ sở trình báo của ông T2 Cơ quan điều tra Công an huyện TO đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Duy T1 và Bùi Thị H1. Đến 10 giờ ngày 17/8/2019 thì Cơ quan điều tra Công an huyện TO đã giữ được cả T1 và H1.

Vật chứng thu giữ:

- Tiền Việt Nam 10.600.000 đồng và 01 điện thoại D1 động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7 do Bùi Thị H1 tự nguyện giao nộp.

- 01 điện thoại D1 động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J5 do Nguyễn Duy T1 tự nguyện giao nộp.

- 01 xe mô tô AIRBLADE biển kiểm soát 29X7 - 360.50 và chứng minh thư nhân dân đều mang tên Nguyễn Đình T2 do ông Cao Thanh D1 giao nộp.

Tại bản Cáo trạng s: 69/CT - VKS ngày 15/10/2019 Viện kiểm sát nhân dân TO, TP Hà Nội truy tố các bị cáo Bùi Thị H1, Nguyễn Duy T1 về tội “Cưỡng đoạt tài sản ” quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự;

Tại bản án số 65/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện TO, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố: Bùi Thị H1, Nguyễn Duy T1 phạm tội "Cưỡng đoạt tài sản".

Áp dụng: khoản 1 Điều 170; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bùi Thị Hường 18 (Mười tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Hạn thử thách là 36 tháng kể từ ngày tuyên án; Nguyễn Duy T1 15 (Mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Hạn thử thách là 30 tháng kể từ ngày tuyên án.

Ngoài ra bản án còn tuyên về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo cho các bị cáo, kháng nghị của Viện kiểm sát.

Không đồng ý với bản án sơ thẩm ngày 13/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện TO, thành phố Hà Nội có quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐKN- VKS-TO kháng nghị bản án HSST số 65/2019/HSST ngay 31/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện TO, thành phố Hà Nội theo trình tự phúc thẩm theo hướng đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử vụ án trên theo trình tự phúc thẩm theo hướng không áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, không cho bị cáo Hường, Thủy được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Bùi Thị H1 và bị cáo Nguyễn Nguy Thủy khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội kết luận vụ án và đề nghị:

- Về kháng nghị: Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện TO trong thời hạn luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự phúc thẩm.

- Về nội dung: Các Bị cáo Bùi Thị H1, Nguyễn Duy T1 có hành vi "Cưỡng đoạt tài sản" của người bị hại, Hội đồng xét xử sơ thẩm xử các bị cáo về tội "Cưỡng đoạt tài sản" là có căn cứ, đúng pháp luật. Các bị cáo phạm tội có chủ mưu từ trước, phạm tội quyết liệt. Đề nghị chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát sửa bản án sơ thẩm theo hưởng:

Áp dụng: khoản 1 Điều 170; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt:

Bùi Thị H1 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/8/2019 đến ngày 26/8/2019;

Nguyễn Duy T1 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án. Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/8/2019 đến ngày 26/8/2019.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về kháng nghị: Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện TO, thành phố Hà Nội trong thời hạn luật định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung: Căn cứ lời khai của bị cáo Bùi Thị H1, Nguyễn Duy T1, lời khai của người bị hại, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ có đủ căn cứ kết luận: Ngày 16/8/2019 Bùi Thị H1 và Nguyễn Duy T1 đã cùng nhau thống nhất hành vi cưỡng đoạt tài sản của ông Nguyễn Đình T2. Sau đó H1 đồng ý cùng ông T2 vào nhà nghỉ Omely ở tố 01, thị trấn KB, huyện TO, thành phố Hà Nội, rồi H1 thông báo cho Nguyễn Duy T1 nhận là người nhà bên chồng của H1 đến bắt quả tang, chụp ảnh uy hiếp ông T2 quan hệ bất chính với H1 và đã chiếm đoạt được của ông T2 10.600.000 đồng. Hành vi của Bùi Thị H1, Nguyễn Duy T1 đã bị Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xét xử về tội “Cưỡng đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã xem xét vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt Bùi Thị H1 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách là 36 tháng kể từ ngày tuyên án; Nguyễn Duy T1 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách là 30 tháng kể từ ngày tuyên án.

[3] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện TO, thành phố Hà Nội, Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Trong vụ án này Bùi Thị H1 là người khởi xướng, rủ rê bàn bạc với Nguyễn Duy T1 thực hiện hành vi cưỡng đoạt người bị hại để lấy tiền. Nguyễn Duy T1 tham gia với vai trò đồng phạm tích cực, là người trực tiếp đe dọa người bị hại để chiếm đoạt tiền. Nhân thân bị cáo H1 có một tiền án đã được xóa án tích. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo như: Khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo đã nộp lại số tiền chiếm đoạt, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, người bị hại cũng có lỗi vi phạm đạo đức trong đời sống hôn nhân gia đình, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn để áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với 02 bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của hai bị cáo, xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù giam đối với các bị cáo mới có tác dụng cải tạo giáo dụng bị cáo và phòng ngừa tội phạm cho nên cần chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện TO, thành phố Hà Nội.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm d khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Chấp nhận một phần kháng nghị số 03/QĐKN-VKSND ngày 13/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TO, thành phố Hà Nội. Sửa bản án sơ thẩm số 65/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện TO, thành phố Hà Nội về phần quyết định hình phạt.

Tuyên bố: Bùi Thị H1, Nguyễn Duy T1 phạm tội "Cưỡng đoạt tài sản"

Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt:

- Bùi Thị H1, 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/8/2019 đến ngày 26/8/2019;

- Nguyễn Duy T1, 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/8/2019 đến ngày 26/8/2019.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự phúc thẩm.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 145/2020/HS-PT ngày 20/02/2020 về tội cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:145/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:20/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về