TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 145/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN
Ngày 12 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A mở phiên tòa xét sử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 07/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2019 về việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 93/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Bé T, sinh năm 1978, Cư trú: Ấp P, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.
2. Bị đơn: Ông Dương Văn N, sinh năm 1979, Cư trú: Ấp B, xã N, huyện A, tỉnh An Giang.
(Bà T có mặt, ông N vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn và bản tự khai cùng ngày 18/10/2018, bà Nguyễn Thị Bé T trình bày: Bà và ông Dương Văn N do cha mẹ định đoạt, tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới vào năm 2004, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ni vào ngày 20/7/2004. Sau khi cưới, bà sống làm dâu bên chồng tại xã N. Trong thời gian sống chung, bà và ông N bất đồng quan điểm, ông N không chăm lo cho cuộc sống gia đình, hai bên thường xuyên cãi nhau. Từ năm 2007, bà và ông N đã ly thân cho đến nay. Trong thời gian ly thân hai bên gia đình không đứng ra hàn gắn. Nhận thấy bà với ông N đã không còn tình cảm và không thể sống chung, thời gian ly thân hơn 10 năm nên bà xin ly hôn với ông N.
Về con chung: Có 02 con chung: 01/ Dương Thị Thanh H, sinh ngày 12/04/2005; 02/ Nguyễn Thị Mỹ H, sinh ngày 13/11/2007. Hiện cháu Thanh H đang sống với ông N, cháu Mỹ H đang sống với bà. Khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Mỹ H, đồng ý để cháu Thanh H cho ông N tiếp tục nuôi dạy, không bên nào phải cấp dưỡng.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Chứng cứ bà T cung cấp cho Tòa án gồm: Giấy chứng nhận kết hôn, sổ hộ khẩu gia đình, chứng minh nhân dân và trích lục khai sinh hai cháu Thanh H và Mỹ H (tất cả bản sao).
Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông Dương Văn N theo quy định nhưng ông N vẫn không có mặt theo văn bản triệu tập của Tòa án, mặc dù trong quá trình tiến hành tố tụng Tòa án có phân công cán bộ đến tại nhà của ông N làm việc nhưng vẫn không gặp ông N để ghi lời khai.
Chứng cứ thu thập được:
Tại biên bản lấy lời khai ngày 06/3/2019, bà Phạm Thị N - mẹ ruột ông N cung cấp: Ông N có nhận được các thông báo của Tòa án nhưng không về được do đi làm xa. Hôn nhân N và T là do cha mẹ định đoạt, đám cưới vào năm 2004. N và T mâu thuẫn cãi nhau và không còn sống chung từ giữa năm 2007 cho đến nay. Theo bà khả năng hàn gắn của hai đứa là không thể. Ông N và bà T có 02 con chung tên Dương Thị Thanh H và Nguyễn Thị Mỹ H, cháu Thanh H đang sống với ông No, còn cháu Mỹ H thì sống với bà T.
Biên bản xác minh ngày 06/3/2019, ông Đinh Văn H – Phó ấp B, xã N, cung cấp cho Tòa án ông Dương Văn N vẫn còn đăng ký hộ khẩu tại ấp B, xã N, huyện A, tỉnh An Giang theo hồ sơ hộ khẩu số 414 ngày 09/3/2016 do ông Dương Văn C làm chủ hộ.
Biên bản ghi nhận ý kiến ngày 14/02/2019 cháu Nguyễn Thị Mỹ H có nguyện vọng được tiếp tục sống với bà T.
Biên bản ghi nhận ý kiến ngày 06/3/2019 cháu Dương Thị Thanh H có nguyện vọng tiếp tục sống chung với ông N.
Tại phiên toà, bà T bảo lưu ý kiến.
Ông N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt ông N theo thủ tục chung.
Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A:
Quan điểm Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc ghi lời khai, hòa giải, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.
Về nội dung vụ án Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Xét yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ nên đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị Bé T khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Dương Văn N. Đồng thời, ông N cư trú trên địa bàn huyện A. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông N được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông N theo khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà T, ông N do cha mẹ định đoạt, có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N vào ngày 20/7/2004 theo quy định nên được xem là hôn nhân hợp pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên thụ lý, giải quyết theo Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.
Xét yêu cầu ly hôn giữa bà T và ông N. Bà T trình bày bà và ông N ly thân từ năm 2007 đến nay, trong thời gian ly thân gia đình hai bên không đứng ra hàn gắn. Bà Phạm Thị N (mẹ ruột ông N) thống nhất thời gian ly thân giữa bà T, ông N từ năm 2007 đến nay, theo bà khả năng hai người sống chung là không thể.
Hội đồng xét xử xét thấy thời gian ly thân giữa bà T, ông N đã lâu nhưng cả hai không có giải pháp hàn gắn. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn của bà T, ông N không thể hàn gắn nên Hội đồng xét xử chấp nhận ly hôn theo yêu cầu của bà T được quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Về con chung: Bà T, ông N có 02 con chung. 01/ Dương Thị Thanh H, sinh ngày 12/04/2005; 02/ Nguyễn Thị Mỹ H, sinh ngày 13/11/2007. Cháu Thanh H đang sống với ông N, cháu Mỹ H đang sống với bà T. Xét thấy cháu Nguyễn Thị Mỹ H, từ trước đến nay đều sống chung với bà T và cháu Mỹ H cũng có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với bà, do đó việc bà T yêu cầu nuôi cháu Mỹ H là phù hợp nên Hội đồng xét xử công nhận. Cháu Dương Thị Thanh H đang sống chung với ông N, cháu có nguyện vọng tiếp tục sống chung với ông N nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo nguyện vọng của cháu.
Về cấp dưỡng: Công nhận sự tự nguyện của bà T về việc không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con chung, đối với ông N do vắng mặt, sau này có yêu cầu cấp dưỡng thì xem xét giải quyết bằng một vụ án khác.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T xác định không có tài sản chung, không có nợ chung nên Tòa án không xem xét giải quyết, nếu sau này các đương sự có yêu cầu thì sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.
[6]Về án phí: Bà T là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 147, 227, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Nguyễn Thị Bé T.
Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Bé T được ly hôn với ông Dương Văn N.
Giấy chứng nhận kết hôn số 41 ngày 20/7/2004 của Ủy ban nhân dân xã N không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
Về con chung: Bà T được tiếp tục nuôi dạy một con chung tên Nguyễn Thị Mỹ H, sinh ngày 13/11/2007. Ông N được tiếp tục nuôi dạy một con chung tên Dương Thị Thanh H, sinh ngày 12/04/2005. Bà T, ông N không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Bà T, ông N cùng các thành viên gia đình không được cản trở nhau trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con dựa trên các căn cứ theo quy định của pháp luật.
Về án phí: Bà Nguyễn Thị Bé T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm. Khấu trừ 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà bà Tám đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A theo biên lai thu số 0011014 ngày 03/01/2019 (bà T đã nộp đủ).
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (12/4/2019) các đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo của các đương sự vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 145/2019/HNGĐ-ST ngày 12/04/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn
Số hiệu: | 145/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về