Bản án 144/2021/HS-PT ngày 01/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 144/2021/HS-PT NGÀY 01/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 122/2021/TLPT-HS ngày 26/4/2021 đối với bị cáo Lê Thị T. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 82/2021/HS-ST ngày 11/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Lê Thị T, sinh năm 1968, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố A, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở hiện nay: Số nhà F, thôn S, xã K, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn D và con bà Nguyễn Thị T1 (Đều đã chết); có chồng là Lê Huy H (Đã chết); Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 1987, con nhỏ sinh năm 1989; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 04/10/2020, chị Nguyễn Thị Ngọc O cùng gia đình đi ăn đám giỗ tại huyện C, tỉnh Đắk Lắk, còn Lê Thị T ở nhà trông coi cháu Nguyễn Hà M (Là con ruột của chị O) và giúp việc nhà cho chị O. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, T đang cho cháu Hà M ăn cháo trong phòng ăn tại tầng 02 thì thấy có 02 chiếc chìa khóa tủ nên nảy sinh ý định lấy chìa khóa để mở tủ trộm cắp tài sản. Sau đó, T lấy 02 chiếc chìa khóa đi đến phòng ngủ của chị O trên tầng 03 (Phòng ngủ không khóa cửa) rồi lấy chiếc chìa khóa mở cửa tủ lén lút trộm cắp số tiền 73.000.000 đồng của chị O, mang cất giấu dưới chiếc ghế gỗ trong phòng rồi lấy chiếc túi xách cùng chiếc áo khoác của T đè lên, sau đó khóa cánh cửa tủ lại. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, chị O cùng gia đình đi về thì T nói với chị O là gia đình T có công việc rồi xin về sớm, chị O đồng ý. Sau đó, T đi đến lấy số tiền 73.000.000 đồng cất giấu vào trong túi áo khoác đang mặc trên người, đi đến phòng tắm tại tầng 03 vứt bỏ 02 chiếc chìa khóa rồi đi ra ngoài lấy xe mô tô của T nhãn hiệu SIRENA, màu sơn nâu, số máy: C150FMG0446522, số khung: YX10000446522, biển số 47H3 – 6554, rồi điều khiển đi đến đầu đường N giao với đường H1, thành phố B, thì gặp H2 (Chưa xác định rõ nhân thân, lai lịch) T lấy số tiền 12.000.000 đồng trả cho H2. Sau đó, T tiếp tục điều khiển xe mô tô đi đến tiệm vàng V, địa chỉ: đường X, thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk do bà Nguyễn Thị Đ làm chủ, mua 01 lượng vàng SJC 9999, bà Đ không biết T dùng số tiền trộm cắp để mua nên đồng ý bán với tổng số tiền 56.800.000 đồng, rồi T mang về cất giấu tại phòng ngủ của gia đình tại số nhà F, thôn S, xã K, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, T đi đến nhà chị Lê Thị T2, địa chỉ: Thôn L, xã K, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, trả nợ số tiền 2.400.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết 800.000 đồng. Đến ngày 06/10/2020 chị Nguyễn Thị Ngọc O phát hiện bị mất tiền nên trình báo Cơ quan Công an để giải quyết.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2021/HS-ST ngày 11/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Lê Thị T 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 15/3/2021, bị cáo Lê Thị T kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm. Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Lê Thị T về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm, Tòa án đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp tình tiết giảm nhẹ nào mới. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 02 năm tù là có phần nghiêm khắc, đề nghị HĐXX căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 của Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận một khần kháng cáo của bị cáo Lê Thị T, sửa bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lê Thị T 18 tháng tù.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 12 giờ 00 phút, ngày 04/10/2020, bị cáo Lê Thị T đã lén lút chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Ngọc O số tiền 73.000.000 đồng. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mức hình phạt 02 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là phù hợp, cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng và đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, HĐXX phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đề nghị giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, xử phạt bị cáo 18 tháng tù là trái với nhận định của HĐXX nên không được chấp nhận.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Lê Thị T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét và có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật tố tụng hình sự:

[1] Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thị T – Giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 82/2021/HS-ST ngày 11/3/2021 của Tòa án nhân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Thị T 02 (Hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án.

[2] Về án phí: Bị cáo Lê Thị T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 144/2021/HS-PT ngày 01/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:144/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về