TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 144/2019/HSST NGÀY 03/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Hôm nay, ngày 03 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 153/2019/HSST, ngày 13/6/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 148/2019/HS-QĐ ngày 17/6/2019, đối với bị cáo:
Trần T (Tên gọi khác: Chu Trần T), sinh năm 1970; Giới tính: Nam; ĐKNKTT: Tổ dân phố H 12, phường TT, quận B, Thành phố H; Nơi ở: Xóm 4, Tổ dân phố Đ1, phường T, quận B, Thành phố H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 7/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Con ông: Chu Trần Th, sinh năm 1958; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con bà: Tự Thị X, sinh năm 1959; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
- Ngày 29/01/1996, Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 09/HSST;
- Ngày 28/9/2000 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 07 năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tại bản án số 1130/HSST; Bị cáo ra trại ngày 15/12/2006;
- Ngày 24/11/2008 Tòa án nhân dân huyện từ Liêm xử phạt 30 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tại bản án số 245/2008/HSST; Bị cáo ra trại ngày 24/02/2010;
- Ngày 26/12/2013 UBND huyện Từ Liêm có Quyết định số 9635/QĐ-UB về việc đưa bị cáo đi cai nghiện bắt buộc 02 năm tại Trung tâm cai nghiện số 2 và sau cai 02 năm;
Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/4/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an Thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ, ngày 01/4/2019, Trần T đi chơi cùng 01 thanh niên tên “Quy” không rõ nhân thân lai lịch, địa chỉ. Sau đó cả hai vào một nhà nghỉ ở khu vực Cầu Diễn (Thành không nhớ rõ nhà nghỉ nào) để sử dụng ma túy đá và ngủ tại đó. Đến sáng hôm sau, Thành dậy thì không thấy “Quy” đâu, Thành thấy trên bàn có 01 gói nilong, bên trong có 06 túi nilong nhỏ chứa ma túy đá, 01 cóng thủy tinh, 02 ống hút, 05 mảnh giấy bạc. Biết Quy bỏ quên nên T lấy những thứ trên để vào một chiếc ví nhựa cũ màu xanh có sẵn trong phòng nhà nghỉ cất vào túi quần và đi về nhà để khi cần sẽ sử dụng. Đến khoảng 12 giờ, ngày 04/4/2019, T đang ở nhà thì có Bùi Trung P đến rủ đi hát karaoke, T mang theo chiếc ví nhựa bên trong có ma túy và những đồ vật như trên để trong túi quần nhưng T không nói việc mang theo chiếc ví bên trong có ma túy trên cho P biết. Sau đó, P điều khiển xe máy chở T đi đến khu vực thị trấn Trôi hát karaoke. Sau khi hát xong, đến khoảng 17 giờ cùng ngày, cả hai chở nhau không đội mũ bảo hiểm, khi đến đoạn đường Kỳ Vũ thuộc phường Thượng Cát, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội thì bị tổ công tác Công an phường Thượng Cát phát hiện, bắt giữ.
Vật chứng thu giữ của Trần T gồm: 01 gói nilong màu trắng trong, kích thước (4x6)cm, bên trong có 06 túi nilong nhỏ kích thước (1,8x2,5)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 cóng; 02 ống hút bằng nhựa màu trắng; 05 mảnh giấy bạc; 01 chiếc ví nhựa màu xanh kích thước (10x20)cm; 01 dao bấm màu đen dài khoảng 10 cm lưỡi dao sáng màu (đã qua sử dụng) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S6 màu bạc, số Imel: 357941060914615.
Thu giữ của Bùi Trung P gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 4S màu trắng, số sim 0869674489; 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trắng, số sim 0976195446; 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius RL màu trắng, BKS 30X9-7853, SM: 240993, SK: 240993 Ngày 05/4/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Bắc Từ Liêm đã quyết định trưng cầu giám định số 413 trưng cầu đối với 06 túi nilong chứa tinh thể màu trắng thu giữ của Trần T.
Tại kết luận giám định số 2230 ngày 12/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận “Tinh thể màu trắng bên trong 06 túi nilong đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 1,712 gam”.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận giám định số 2230 ngày 12/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội.
Tại cơ quan điều tra, Bùi Trung P khai: do P và Thành đi xe máy không đội mũ bảo hiểm nên bị Công an đưa về trụ sở làm việc, P không biết gì về số ma túy đá mà T bị thu giữ. Từ cuối năm 2018 đến nay, P thỉnh thoảng có sử dụng ma túy đá. Cách ngày T với P bị bắt giữ 03 hôm, P có sử dụng ma túy đá bằng hình thức hít cho nên khi thử ma túy trong nước tiểu của P cho kết quả dương tính. Ngày 04/4/2019, công an phường Thượng Cát đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Bùi Trung P và Trần T về hành vi tham gia giao thông không đội mũ bảo hiểm. Ngày 31/5/2019, công an quận Bắc Từ Liêm đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Bùi Trung P về hành sử dụng trái phép chất ma túy.
Đối với đối tượng tên “Quy” là người sử dụng ma túy cùng Trần T, do không xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Bắc từ Liêm không có căn cứ để xử lý.
Đối với chiếc xe máy Yamaha Sirius RL màu trắng, BKS 30X9-7853 thu giữ của Bùi Trung P, P khai là xe của mình, mua và đứng tên đăng ký từ năm 2010. Qua tra cứu xác minh xác định đăng ký xe mang tên Bùi Trung P, xe máy không nằm trong dữ liệu xe vật chứng. Đối với 01 chiếc điện thoại di động Iphone 4S, màu trắng lắp sim số 0869674489 và 01 chiếc điện thoại di động Iphone 5, màu trắng lắp sim số 0976195446 qua kiểm tra xác minh đều là tài sản của Bùi Trung P và không liên quan gì đến vụ án cho nên ngày 31/5/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Bắc Từ Liêm đã ra quyết định xử lý vật chứng số 80 trao trả cho Bùi Trung P 01 xe máy Yamaha Sirius RL màu trắng, BKS 30X9-7853, SM 240993, SK 240993; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 4S màu trắng, số sim 0869674489; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng, số sim 0976195446. Cùng ngày, Bùi Trung P đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì.
Đối với 01 gói nilong màu trắng trong, bên trong có 06 túi nilong nhỏ chứa tinh thể màu trắng; 01 cóng; 02 ống hút bằng nhựa màu trắng; 05 mảnh giấy bạc; 01 chiếc ví nhựa màu xanh T khai lấy được ở nhà nghỉ sau khi cùng Quy sử dụng ma túy. Đối với 01 dao bấm màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S6 màu bạc là tài sản của T mang theo bên mình khi bị công an bắt giữ. Những vật chứng trên cần chuyển theo hồ sơ vụ án để xử lý theo quy định.
Tại Bản cáo trạng số 127/CT-VKS ngày 03/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm quyết định truy tố bị cáo Trần T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Trần T mức án từ 24 đến 30 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa Bị cáo và Kiểm sát viên không có ý kiến gì về Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm truy tố bị cáo Trần T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” cũng như phần luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Bị cáo Trần T trong lời nói sau cùng cũng nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét bị cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo yên tâm đi cải tạo, sớm trở về xã hội để giúp đỡ gia đình và trở thành công dân tốt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Khoảng 18 giờ, ngày 04/4/2019, tại trụ sở Công an phường Thượng Cát, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Trần T đang có hành vi cất giấu trái phép 1,712 gam ma túy Methamphetamine trong túi quần thì bị công an phường Thượng Cát bắt quả tang cùng vật chứng. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trần T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do bị cáo có hành vi cất giấu trái phép 1,712 gam ma túy Methamphetamine nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
… c, … Methamphetamine… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam…”.
Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới chính sách quản lý, kiểm soát ma túy, chính sách phòng ngừa, ngăn chặn tệ nạn ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Ma tuý là hiểm hoạ đối với con người, không chỉ gây thiệt hại về kinh tế, ma tuý còn làm tha hoá đạo đức, huỷ hoại sức khoẻ, nòi giống của người sử dụng nó, là nguyên nhân của nhiều căn bệnh nguy hiểm và nguyên nhân gây ra một loạt các tội phạm nguy hiểm khác, nên cần được xét xử nghiêm minh theo quy định của pháp luật để giáo dục cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.
Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:
Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
Các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo thể hiện, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo.
Với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xem xét về nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian cũng đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.
Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ,cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, bị cáo không nghề nghiệp, không thu nhập ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Cơ quan công an thu giữ của bị cáo số một đồ vật, tài sản. Hội đồng xét xử xét đây là tài sản liên quan đến hành vi phạm tội và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Vì thế, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 47; Điều 48 Bộ luật Hình sự; Khoản 2, Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự để sung công quỹ hoặc trả lại cho bị cáo, người liên quan. Cụ thể:
+ 01 gói nilong màu trắng trong, kích thước (4x6)cm, bên trong có 06 túi nilong nhỏ kích thước (1,8x2,5)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng là chất gây nghiện, Nhà nước cấm lưu hành; 01 cóng; 02 ống hút bằng nhựa màu trắng; 05 mảnh giấy bạc; 01 chiếc ví nhựa màu xanh kích thước (10x20)cm; 01 dao bấm màu đen dài khoảng 10 cm lưỡi dao sáng màu (đã qua sử dụng) là những công cụ, đồ vật bị cáo sử dụng vào việc hút ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy;
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S6 màu bạc, số Imel 357941060914615 là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.
Bị cáo phải chịu án phí và có Quy kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trần T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Áp dụng Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Trần T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/4/2019.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47; Điều 48 Bộ luật Hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy Methamphetamine đã giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của Trần T, Nguyễn Đình Duy S, Nguyễn Văn S và giám định viên; 01 cóng; 02 ống hút bằng nhựa màu trắng; 05 mảnh giấy bạc; 01 chiếc ví nhựa màu xanh kích thước khoảng (10x20)cm; 01 dao bấm màu đen dài khoảng 10 cm lưỡi dao sáng màu (đã qua sử dụng);
- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S6 màu bạc, đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong;
(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng số 178/19 ngày 11/6/2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm và Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về Quy kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo có Quy kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 144/2019/HSST ngày 03/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 144/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về