Bản án 144/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 144/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 29 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 201/2018/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 11 năm 2018 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3684/2018/QĐXX-ST ngày 21 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Đỗ Văn Tr; địa chỉ: Thôn 4, Nãi Sơn, xã A, huyện B, thành phố Hải Phòng; hiện cư trú tại: Kiêng kito.Ansansi.Sang Zokku.Uonphitong 169_2 bonchi.201 ho, Hàn Quốc; vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Bùi Thị H; địa chỉ: Thôn 4, Nãi Sơn, xã A huyện B, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, các bản tự khai nguyên đơn anh Đỗ Văn Tr trình bày:

Anh và chị Bùi Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, thành phố Hải Phòng vào ngày 21/02/2011. Do điều kiện kinh tế khó khăn, sau khi kết hôn anh đã đi lao động tại Hàn Quốc từ đó đến nay. Do thời gian xa cách nên vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên xảy ra xung đột, bất đồng quan điểm sống dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Vợ chồng đã cố gắng tháo gỡ mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Đến nay không thể tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân nữa nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn.

Về con chung: Anh chị có một con chung là cháu Đỗ Thị Huyền Trang sinh ngày 05/10/2012, anh thống nhất để chị Hà nuôi con.

Việc cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh chị tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Bùi Thị H thống nhất với lời trình bày của anh Trọng về việc kết hôn, quan hệ hôn nhân, mâu thuẫn vợ chồng, con chung và tài sản chung. Chị cũng đề nghị Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng giải quyết cho anh chị được ly hôn.

Tại phiên toà, bị đơn chị Bùi Thị H đồng ý việc anh Trọng xin ly hôn. Nguyên đơn anh Đỗ Văn Tr vắng mặt và có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Do anh Đỗ Văn Tr đang ở nước ngoài không về Việt Nam được nên ủy quyền cho chị Hà nhận các văn bản tố tụng của Tòa án. Đơn của Đỗ Văn Tr được xác nhận bởi Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thẩm quyền: Anh Đỗ Văn Tr và chị Bùi Thị H cùng có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng giải quyết việc hôn nhân của anh chị , anh Trọng hiện đang lao động tại Hàn Quốc, chị Hà có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn 4, Nãi Sơn, xã A, huyện B, thành phố Hải Phòng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

 [2] Về tố tụng: Anh Đỗ Văn Tr là nguyên đơn trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

 [3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Trọng và chị Bùi Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, thành phố Hải Phòng vào ngày 21/02/2011. Theo quy định tại Điều 9, Điều 11 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Anh Trọng, chị Hà đều xác định: Do điều kiện kinh tế khó khăn, sau khi kết hôn anh Trọng đã đi lao động tại Hàn Quốc. Do thời gian xa cách nên vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên xảy ra xung đột, bất đồng quan điểm sống dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Vợ chồng đã cố gắng tháo gỡ mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Đến nay không thể tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân nữa nên anh chị đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn. Xét mục đích hôn nhân của anh Trọng, chị Hà không đạt được, mâu thuẫn đã trầm trọng, việc thuận tình ly hôn của anh chị là phù hợp quy định tại Điều 55 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Đỗ Văn Tr và chị Bùi Thị H theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

 [4] Về con chung: Anh chị có một con chung là cháu Đỗ Thị Huyền Trang sinh ngày 05/10/2012, anh chị thống nhất để chị Hà nuôi con. Xét thấy thỏa thuận trên của anh chị là phù hợp với quy định tại các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên Hội đồng xét xử giao cháu Đỗ Thị Huyền Trang sinh ngày 05/10/2012 cho chị Hà nuôi dưỡng.

Việc cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 [5] Về tài sản chung: Anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [6] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Đỗ Văn Tr phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51; Điều 56; Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228, Điều 273, khoản 2 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Đỗ Văn Tr và chị Bùi Thị H được ly hôn.

2. Về con chung: Giao cháu Đỗ Thị Huyền Trang sinh ngày 05/10/2012 cho chị Bùi Thị H nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận, hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Đỗ Văn Tr phải chịu 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, anh Trọng được trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0010914 ngày 08 tháng 11 năm 2018 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Anh Trọng đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Đỗ Văn Tr được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật. Chị Bùi Thị H được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

6. Trong trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
  • Tên bản án:
    Bản án 144/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về ly hôn
  • Số hiệu:
    144/2018/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    29/11/2018
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 144/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về ly hôn

Số hiệu:144/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về