Bản án 144/2017/HSPT ngày 25/09/2017 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 144/2017/HSPT NGÀY 25/09/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 25 tháng 9 năm 2017, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa công khai tại hội trường để xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 126 ngày 23/8/2017, do có kháng nghị của Viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên và kháng cáo của các bị cáo Dương Văn P, Nguyễn Văn G, Nguyễn Văn D đối với bản án Hình sự sơ thẩm số 40/2017/HSST ngày 12/7/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.

* Bị cáo bị kháng nghị và bị cáo kháng cáo:

Dương Xuân P, sinh ngày 12/02/1993; ĐKHKTT: Tổ dân phố P, phường L, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: lớp 6/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Dương Xuân B (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị L; Chưa có vợ; Tiền án: Tại bản án số 403/2013/HSST ngày 29/3/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt 42 tháng tù về tội “Cướp tài sản” ra trại ngày 31/8/2015; Tiền sự: Không; Nhân thân: Tại bản án số 299/2010/HSST ngày 23/9/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/01/2017 đến ngày 20/01/2017, được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

* Các bị cáo kháng cáo:

1) Nguyễn Văn G, sinh ngày 11/11/1993; ĐKHKTT: Tổ dân phố P, phường L, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: lớp 9/12; Nghề nghiệp: công nhân; Con ông: Nguyễn Văn T; Con bà: Nguyễn Thị O; Vợ Nguyễn Thị H; Tiền án: không;Tiền sự: Ngày 22/8/2016 bị Công an thành phố S xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/01/2017 đến ngày 20/01/2017, được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

2) Nguyễn Văn D, sinh ngày 23/10//1991; ĐKHKTT: Tổ dân phố B, phường L, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: lớp 9/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Nguyễn Văn D, sinh năm 1959; Con bà: Trần Thị C, sinh năm 1961; Vợ Nguyễn Thanh N; Tiền án: không; Tiền sự: Ngày 22/8/2016 bị Công an thành phố S xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/01/2017 đến ngày 20/01/2017, được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

* Các bị cáo không kháng cáo và không bị kháng nghị: Tòa không triệu tập.

1. Trần Hồng D

2. Trần Văn T

3. Bùi Mạnh C

4. Phan Mạnh H

5. Trần Hồng H1

6. Nguyễn Đức H2

7. Nguyễn Tiến M

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sông Công và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Sông Công , tỉnh Thái Nguyên thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 12/01/2017, Nguyễn Tuấn A cùng với Hoàng Đình T đi từ đám cưới nhà ông H ở tổ dân phố P, phường L, thành phố S đến nhà Trần Hồng D (có cùng địa chỉ) để chơi. Tại đây, thấy trên bàn uống nước có 01 bộ bài tú lơ khơ nên Tuấn Avà Tài rủ nhau đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức đánh ba cây. Sau đó Tuấn A và T ngồi xuống chiếu nhựa được trải sẵn ở phòng khách sử dụng bộ bài tú lơ khơ rồi đánh ba cây. Một lúc sau thì có Dương Xuân P, Trần Hồng H1 và Phan Mạnh H đến và cùng ngồi xuống đánh bạc, cách thức chơi như sau: trộn đều 36 quân bài lên rồi chia theo vòng cho mỗi người 3 quân để cộng tổng điểm, điểm của của bài là số của hàng đơn vị trong tổng điểm cộng được, nếu hàng đơn vị là 0 thì bài đó được tính là 10 điểm là bài có điểm cao nhất (ví dụ bài có 7, 8, 9 thì tổng là 24, tức là 4 điểm, nếu bài có 5, 7, 8 tổng là 20, điểm được tính là 10…), trong số những người chơi, có một người làm chương và chương được bàn giao cho người đạt điểm 10, những người chơi còn lại so sánh điểm với bài của chương, nếu thắng thì được chương trả tiền, thua thì phải trả tiền cho chương, ngoài ra những người chơi có thể thỏa thuận với nhau để đọ điểm riêng với nhau hoặc nhân đôi số tiền phải trả khi bài đạt điểm 9, 10 (các bị cáo gọi là tới). Trong lúc Tuấn A, T, P, H1, H đang đánh bạc thì D đi chơi về, D không nói gì và biết các đối tượng đang chơi bài ăn tiền.

Khoảng 20 giờ cùng ngày Nguyễn Văn G, Bùi Mạnh C và Nguyễn Văn D đi đến, những người này xin chơi bạc nhưng không được nên ngồi xem. Khoảng 15 phút sau Nguyễn Đức H2 đến, thấy mọi người đang đánh ba cây nên H2 nói: “Đông thế này chuyển sang đánh xóc đĩa thôi”. Ngay lúc đó P không đánh ba cây nữa mà đứng dậy đi làm dụng cụ để đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, thấy P đứng dậy G và C ngồi xuống đánh ba cây cùng mọi người. Lúc này thấy D đang đứng ở gần đó nên P hỏi D lấy cho P 01 que đóm, 01 mẩu dây cao su, 01 con dao gọt hoa quả và 01 bật lửa để làm quân vị; 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, D đồng ý đi lấy rồi đưa cho P, sau đó D tiếp tục đi sang đám cưới nhà ông H. Sau khi được D đưa cho, P đi ra hiên nhà dùng dao vót que đóm cho nhẵn hai mặt, dùng bật lửa đốt dây cao su bôi đen một mặt, còn một mặt để trắng. Sau đó P mang 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, que đóm vào để xuống chiếu nhựa cạnh chiếu đang đánh ba cây và dùng tay bẻ que đóm thành 4 mảnh có kích thước (1,5 x 01)cm để làm quân vị rồi rủ mọi người đánh xóc đĩa. Ngay sau đó D, H2 ngồi xuống chiếu đánh xóc đĩa ăn tiền cùng P, P là người xóc cái. Khoảng 30 phút sau ở chiếu đánh ba cây do Tuấn A và T cãi nhau nên mọi người không đánh nữa, thấy vậy G, C, H, H1 chuyển sang đánh xóc đĩa cùng với P, D, H2. Cách thức đánh như sau: người chơi bạc ngồi dọc hai bên chiếu bạc, một bên được quy ước là chẵn, một bên là lẻ. Người xóc cái ngồi ở giữa, cho 4 quân bài bằng tre được bôi đen 1 mặt vào đĩa sứ và úp bát sứ lên trên, cho xóc mấy lượt. Xóc xong, người xóc cái để bát xuống và tuyên bố các mặt đánh và mọi người chơi đặt tiền vào các ô chẵn hoặc lẻ. Chẵn ở đây là khi mở bát xuất hiện hai xấp đôi, tức là hai vị úp, hai vị ngửa, hoặc tứ tử bốn vị úp hoặc bốn vị ngửa, lẻ là ba con trắng một con đen, hoặc ngược lại, ba con đen một con trắng. Nếu kết quả mở bát là chẵn, thì những người đặt tiền ở cửa lẻ bị mất số tiền đã đặt, những người đặt tiền ở cửa chẵn được nhận số tiền bằng số tiền họ đã đặt và ngược lại, nếu kết quả mở bát là lẻ những người đặt tiền ở cửa lẻ được tiền và người đặt cửa chẵn mất tiền.

Đến khoảng 20 giờ 45 phút D đi chơi về, thấy mọi người đang đánh bạc, D không tham gia đánh mà ngồi xem mọi người đánh bạc. Sau đó D được H2, G, C và D mỗi người cho 20.000đ. Khoảng 21 giờ thì Trần Văn T và Nguyễn Tiến M đến rồi cùng tham gia đánh bạc với những người trên. Đến khoảng 21 giờ 25 phút do đánh hết tiền nên H1, H đứng dậy đi về nhà.

Khoảng 22 giờ 10 phút cùng ngày, khi các đối tượng đang chơi bạc theo quy ước trên thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sông Công phát hiện, một số đối tượng bỏ chạy, cơ quan điều tra bắt quả tang Nguyễn Văn G, Bùi Mạnh C, Nguyễn Văn D và Trần Văn T, đồng thời tạm giữ trên chiếu bạc 9.900.000đ tiền đánh bạc, 01 bát sứ, 01 đĩa sứ và 01 chiếu nhựa. Còn Dương Xuân P, Nguyễn Đức H2, Nguyễn Tiến M bỏ chạy. Ngày 13 và 14/01/2017 P, H2, M, H đến cơ quan CSĐT Công an thành phố S đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Ngày 13/01/2017 và ngày 07/02/2017, Trần Hồng D đã tự nguyện giao nộp số tiền 80.000đ là số tiền D được hưởng lợi từ việc cho các đối tượng chơi bạc tại nhà mình. Ngày 20/01/2017, bị cáo Nguyễn Tiến M đã tự nguyện giao nộp số tiền150.000đ và xác định đây là số tiền dùng vào việc đánh bạc mà M cầm theo khi bỏ chạy khỏi nơi đánh bạc.

Ngày 09/02/2017 và ngày 15/02/2017, Nguyễn Tuấn A và Hoàng Đình T đã tự nguyện giao nộp số tiền 310.000đ (trong đó của Tuấn A 70.000đ, T 240.000đ) là số tiền dùng đánh ba cây còn lại.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 40 ngày 12/7/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Sông Công , tỉnh Thái Nguyên quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Dương Xuân P phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Xử phạt bị cáo Dương Xuân P 04 tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 13/01/2017 đến ngày 20/01/2017. Thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành hình phạt.

Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009, xử phạt:

Nguyễn Văn G 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành bản án này, được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 13/01/2017 đến ngày 20/01/2017.

Nguyễn Văn D 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành bản án này, được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 13/01/2017 đến ngày 20/01/2017.

Bản án sơ thẩm còn quyết định xử phạt các bị cáo D 12 tháng tù cho hưởng án treo; Bị cáo H2 phạt hình phạt tiền là 10.000.000đ, H1, M, H, C, T mỗi bị cáo phạt hình phạt tiền là 7.000.000đ,quyết định phạt bổ sung đối với các bị cáo D, P, D, G, xử lý vật chứng, buộc các bị cáo chịu án phí, thông báo quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 17/7/2017 các bị cáo Dương Xuân P, Nguyễn Văn G, Nguyễn Văn D kháng cáo xin được hưởng án treo

Ngày 09/8/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên có kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ-KNPT, đề nghị xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo Dương Xuân P.

Trước khi mở phiên tòa hai bị cáo Nguyễn Văn G và Nguyễn Văn D, xin rút toàn bộ kháng cáo, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã ra thông báo về việc rút đơn kháng cáo của hai bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Dương Xuân P xin rút toàn bộ kháng cáo.

Phần kết luận tại phiên tòa: Sau khi phân tích tính chất vụ án, nhân thân các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo P, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đề nghị hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 238; điểm b khoản 2 Điều 248; khoản 3 Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận việc rút đơn kháng cáo của bị cáo Dương Xuân P, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo của bị cáo P; Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái nguyên tăng hình phạt tù đối với bị cáo Dương Xuân P.

Bị cáo P không có ý kiến tranh luận gì, lời nói sau cùng bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo đi cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Quyết định kháng nghị số 02 ngày 09/8/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên làm trong hạn luật định được đưa ra xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Dương Xuân P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản án sơ thẩm đã mô tả: Khoảng thời gian từ 19 giờ 45 phút đến 22 giờ 10 phút ngày 12/01/2017, tại nhà Trần Hồng D ở tổ dân phố P,phường L,  thành phố S, tỉnh Thái Nguyên, Trần Hồng D đã cho hai chiếu bạc đánh bạc tại nhà mình được hưởng lời số tiền là 80.000đ, khi các đối tượng đang đánh bạc bằng hình thức chơi xóc đĩa thì bị cơ quan Công an thành phố S, tỉnh Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang thu giữ số tiền trên chiếu bạc là 9.900.000đ cùng một số vật chứng. Với hành vi trên Toà án nhân dân thành phố S, tỉnh Thái Nguyên đã xét xử bị cáo Dương Xuân P phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 điều 248 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng pháp luật.

Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Hội đồng xét xử xét thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội là nguyên nhân gây ra nhiều tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Đây là vụ án đánh bạc có nhiều người tham gia, trong vụ án này bị cáo P là người trực tiếp chuẩn bị dụng cụ và là người trực tiếp xóc cái, nhân thân Dương Xuân P đã có tiền án chưa được xóa án tích đi cải tạo về không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục lao sâu vào con đường phạm tội, điều đó thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo, tệ nạn cờ bạc ngày càng gia tăng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo 04 tháng tù là chưa đánh giá hết tính chất vụ án cũng như vai trò, nhân thân của bị cáo, chưa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Do đó cần chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tăng hình phạt tù đối với bị cáo Dương Xuân P, mới đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xét lại.

Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tại phiên toà hôm nay là có căn cứ

Vì các lẽ trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Căn cứ khoản 2 Điều 238; điểm b khoản 2 Điều 248; khoản 3 Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận việc rút toàn bộ kháng cáo của bị cáo Dương Xuân P, đình chỉ xét xử đối với phần kháng cáo của bị cáo. Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Sửa bản bản án hình sự sơ thâm sô 40 ngày 12/7/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. Tuyên bô: Bị cáo Dương Xuân P phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Dương Xuân P 9 (chín) tháng tù,thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành hình phạt của bản án này, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 13/01/2017 đến ngày 20/01/2017.

Án phí Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm,thu, nộp, quản lý và sử dụng án lệ phí Tòa án.

Bị cáo Dương Xuân P không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiêu lưc phap luât kê tư ngay hêt thơi han khang cao, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tu yên an./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 144/2017/HSPT ngày 25/09/2017 về tội đánh bạc

Số hiệu:144/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về