Bản án 143/2021/HS-PT ngày 12/03/2021 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 143/2021/HS-PT NGÀY 12/03/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 12/3/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 727/2020/TLPT-HS ngày 18/12/2020. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 452/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1972 tại Long An; Nơi đăng ký thường trú: 83 tổ A, ấp A, xã A, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;; Con ông Nguyễn Văn G và bà Văn Thị X; Có vợ và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giam ngày: 19/5/2019 (Có mặt tại phiên tòa).

Người bào chữa cho bị cáo:

Luật sư Nguyễn Thị B, Đoàn Luật sư Tp.HCM (Có mặt tại phiện tòa)

 Phía người bị hại không có kháng cáo:

1/ Bà Lê Thị Mỹ L, sinh năm 1981

2/ Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1981 Cùng địa chỉ: tổ A, ấp A, xã A, huyện C, Tp.HCM.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm, vụ án có nội dung như sau:

Nguyễn Văn T và chị Lê Thị Kim H (tên gọi khác là L1) sinh sống với nhau như vợ chồng từ cuối năm 2015 cùng ngụ tại ấp An Hòa, xã An Thới Đông, huyện cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng không đăng ký kết hôn và không có con chung. Khoảng tháng 02/2019, do mâu thuẫn trong cuộc sống nên chị H đã bỏ nhà đi và không liên lạc với T.

Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 19/5/2019, sau khi uống rượu cùng với một số người bạn, T về nhà lấy 02 con dao, 01 con dao dài 25 cm dắt vào thắt lưng quần và 01 con dao dài 27 cm cầm trên tay phải, đi đến nhà chị Lê Thị Mỹ L (là chị ruột của chị H) tại tổ 01, ấp An Bình, xã An Thới Đông, huyện cần Giờ để hỏi thông tin và chỗ ở của chị H.

Khi đến nơi, T nhìn thấy chị L đang làm móng cho chị Dương Thị Thúy O nên T cầm dao đi đến gần chị L và hỏi: “L1 ở đâu, chị cho tôi gặp L1”, chị L trả lời “Không biết”, T hỏi tiếp: “Chị cho tôi số điện thoại của L1”, chị L không trả lời.

Do nghĩ chị L giấu thông tin của chị H (L1) nên T cầm dao xông đến đâm liên tiếp nhiều nhát vào người chị L làm chị L ngã xuống sàn nhà. Chị O bỏ chạy ra ngoài tri hô nên chồng chị L là anh Nguyễn Văn S từ trong phòng ngủ chạy ra thấy chị L đang nằm dưới sàn nhà nên đến đỡ chị L ngồi dậy.

Lúc này, T lấy thêm 01 con dao dắt ở lưng quần ra cầm ở tay trái rồi xông đến đâm anh S. Anh S dùng tay gạt đỡ và giằng co dao với T, T dùng dao đâm trúng vào đầu và vai làm anh S ngã xuống nền nhà. T tiếp tục xông vào đâm anh S nhưng bị anh S dùng chân đạp làm T ngã xuống nền nhà và văng con dao cầm trên tay trái vào trong gầm tủ đựng đồ ở góc nhà. Anh S thấy T bị ngã nên nhào tới ôm T lại, lúc này anh Phan Văn L là hàng xóm chạy đến can ngăn, cùng anh S khống chế tước lấy con dao trên tay phải của T.

Sau đó, Công an xã An Thới Đông, huyện cần Giờ đến đưa T về trụ sở Công an xã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và chuyển giao cho Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện cần Giờ để điều tra xử lý theo thẩm quyền.

Chị Lê Thị Mỹ L và anh Nguyễn Văn S được đưa đến Trạm Y tế xã An Thới Đông cấp cứu, sau đó chị L và anh S được chuyển đến Bệnh viện nhân dân 115, Thành phố Hồ Chí Minh điều trị đến ngày 21/5 và 29/5/2019 thì xuất viện.

Quá trình điều tra, T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại Kết luận giám định số 450/TgT.19 ngày 29/5/2019 của Trung tâm Pháp y, thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận như sau: Chị Lê Thị Mỹ L có các vết thương gồm:

Một vết thấu ngực trái tại liên sườn 4 đường nách trước, thấu vào khoang màng phổi, không tổn thương phổi; Một vết thương sau hố nách sau trái xuyên thấu vào khoang ngực trái, xuyên thủng phổi hai lỗ; Tràn khí, tràn máu màng phổi trái. Đã được phẫu thuật mở ngực khâu phổi, dẫn lưu màng phổi, khâu vết thương.

Vết thương vùng dưới ngoài bờ sườn trái, thấu bụng gây thủng ruột non, thủng ruột già, thủng nhánh động mạch mạc treo ruột, đã được phẫu thuật mở bụng khâu nối ruột non, cắt đoạn đại tràng làm hậu môn nhân tạo. Các vết thương do vết sắc nhọn gây ra, rất nguy hiểm đến tính mạng.

Đa vết thương phần mềm gây thủng đứt da, đã được điều trị, hiện còn các vết thương còn chỉ khâu lại; Vùng bả vai cánh tay trái vết thương kích thước 9,2 x 0,lcm; Ngón I bàn tay phải kích thước 4 x 0,1cm.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể của chị L là: 81%.

Tại Kết luận giám định số 475/TgT19 ngày 06/6/2019 của Trung Tâm Pháp Y thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận, như sau: Các vết thương của Nguyễn Văn S, do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra. Tỉ lệ tổn thương cơ thể của anh S là 5%.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 39/2019/HS-ST ngày 03/10/2019, Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ, đã tuyên xử:

Nguyễn Văn T 09 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị hại Lê Thị Mỹ L có đơn kháng cáo yêu cầu: Tăng án, bồi thường thiệt hại và xem xét lại tội danh đối với Nguyễn Văn T.

Tại Bản án Hình sự phúc thẩm số 578/2019/HS-PT ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã tuyên xử:

Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên, để điều tra xét xử lại theo quy định của pháp luật Ngày 02/01/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện cần Giờ đã có quyết định chuyển hồ sơ vụ án, có nội dung: Chuyển hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra về hành vi giết người theo thẩm quyền.

Ngày 20/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, có nội nội dung: Thay đổi Quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn T về tội “Giết người”.

Tại Bản Cáo trạng số 444/CT-VKS-P2 ngày 30/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, có nội dung: Truy tố bị can Nguyễn Văn T về tội “Giết người” theo điểm a, điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 452/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã tuyên xử:

Áp dụng điểm a điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Áp dụng Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015; Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của UBTVQH về lệ phí, án phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 18 năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 19/5/2019.

Buộc bị cáo bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn Văn S và bà Lê Thị Mỹ L số tiền 576.894.000đồng.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề liên quan đến tang vật, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 16/11/2020 Bị cáo Nguyễn Văn T làm đơn kháng cáo, nêu lý do: Bản án sơ thẩm quá nặng, hoàn cảnh gia đình khó khăn xin được giảm nhẹ mức án.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo T kháng cáo xin được xem xét để giảm nhẹ mức án và giảm tiền bồi thường thiệt hại cho phía bị hại.

Luật sư bào chữa cho bị cáo T cho rằng, giữa bị cáo và phía gia đình bị hại có những mâu thuẫn trong tình cảm nên cũng có bức xúc trong khi thực hiện hành vị phạm tội, hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn hiện bị cáo có 2 con còn nhỏ, nên xin được xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm cho rằng:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đầy đủ theo qui định của Bộ luật tố tụng Hình sự 2015, những người tham gia phiên tòa cũng đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định.

Về nội dung: Đề nghị giữ nguyên Bản án sơ thẩm vì có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

1/ Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo T làm trong hạn luật định, nên thủ tục kháng cáo hợp lệ.

2/ Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo:

[2.1] Do tức giận việc chị Lê Thị Kim H (là người chung sống như vợ chồng với bị cáo) hiện đã bỏ đi nơi khác sinh sống và cắt liên lạc với T, nên sau khi uống rượu T mang theo 2 con dao tìm đến nhà chị Lê Thị Mỹ L (chị của chị H) để hỏi về thông tin của H, khi nghe chị L nói không biết, bị cáo T đã dùng dao đâm liên tiếp nhiều nhát vào người chị L gây thương tật với tỷ lệ là 81 %.

Anh Nguyễn Văn S (chồng chị L) chạy đến đỡ chị L, thì bị T lấy thêm con dao từ thắt lưng quần ra đâm nhiều nhát trúng vào đầu, vào vai gây thương tật cho anh S là 5%, sau đó có những người xung quanh hỗ trợ khống chế được T giao Công an xử lý.

[2.2] Theo điểm a, điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015, quy định về tội “Giết người” như sau:

Giết người trong trường hợp: a/ Giết hai người trở lên (…) n/ Giết người có tính chất côn đồ, thì bị xử phạt từ 12 năm, 20 năm tù, chung thân hoặc tử hình.

[2.3] Đối chiếu với trường hợp của các bị cáo thì thấy:

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T là rất nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an xã hội.

Bị cáo là người đã thành niên, nhận thức đầy đủ về hành vi của mình. Nhưng do bực tức vì nhu cầu tình cảm riêng, nên đã vô cớ dùng dao đâm nhiều nhát vào người chị L và anh S là những người không liên quan gì đến sự bực tức của bị cáo, hành vi trên mang tính chất côn đồ, hậu quả nạn nhân không chết là ngoài ý muốn của của bị cáo.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo T 18 năm tù về tội “Giết người”, theo điểm a, điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 như đã viện dẫn, là có căn cứ, hợp pháp. Trong đó, có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ như lần đầu phạm tội, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thuờng một phần thiệt hại, được pháp luật quy định tại điểm b điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ngoài những lời khai nại nêu trên, các bị cáo cũng không đưa ra được tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình, nên cấp phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận.

3/ Về án phí hình sự phúc thẩm: Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo, nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo luật định.

Các phần nội dung khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 355 Bộ Luật tố tụng Hình sự.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

1/ Áp dụng điểm a điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 18 năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 19/5/2019.

2/ Áp dụng Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015. Buộc bị cáo bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn Văn S và bà Lê Thị Mỹ L số tiền 576.894.000đồng.

3/ Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo T chịu số tiền 200.000đồng.

4/ Các phần nội dung khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.

5/ Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 143/2021/HS-PT ngày 12/03/2021 về tội giết người

Số hiệu:143/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về