TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 143/2020/HS-ST NGÀY 26/10/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 26 /10/2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 151/2020/HSST ngày 01/10/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 163/2020/QĐXXST – HS ngày 09 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:
HOÀNG VĂN S. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh năm 1977, tại G.
Nơi đăng ký HKTT: Tổ 01, phường P, TP.P, tỉnh G.
Chỗ ở: Không có nơi ở nhất định.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.
Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Không.
Cha: Hoàng Văn H (đã chết).
Mẹ: Nguyễn Thị S (đã chết).
Bị cáo có 03 người anh ruột; lớn nhất sinh năm 1967, nhỏ nhất sinh năm 1974. Bị cáo là con út trong gia đình, bản thân chưa có vợ, con.
Về nhân thân của bị cáo:
- Ngày 09/9/2010, bị Tòa án nhân dân TP.P, tỉnh G xử phạt 06 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” (theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009); chấp hành án tại Trại giam G, Bộ Công an. Ngày 30/11/2010, chấp hành xong hình phạt tù (lần bị kết án này, Hoàng Văn S đã được xóa án tích).
- Ngày 27/6/2013, bị Tòa án nhân dân TP.P, tỉnh G, xử phạt 10 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” (theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009); chấp hành án tại Trại giam G, Bộ Công an. Ngày 14/01/2014, chấp hành xong hình phạt tù (lần bị kết án này, Hoàng Văn S đã được xóa án tích).
- Ngày 11/5/2017, bị Tòa án nhân dân TP.P, tỉnh G, xử phạt 15 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” (theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009); chấp hành án tại Trại giam G, Bộ Công an. Ngày 13/4/2018, chấp hành xong hình phạt tù (lần bị kết án này, Hoàng Văn S chưa được xóa án tích).
- Ngày 09/11/2018, bị Tòa án nhân dân TP.P, tỉnh G, xử phạt 15 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” (theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017); chấp hành án tại Trại giam G, Bộ Công an. Ngày 04/10/2019, chấp hành xong hình phạt tù (lần bị kết án này, Hoàng Văn S chưa được xóa án tích).
Tiền sự: Không; Tiền án: 02 lần.
Bị cáo Hoàng Văn S bị tạm giữ từ ngày 05/7/2020 đến ngày 14/7/2020, sau đó bị áp dụng biện pháp tạm giam cho đến nay, tại Nhà tạm giữ Công an TP.P, có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại:
- Bà Nguyễn Thị P, sinh năm: 1979.
Địa chỉ: 38 Phạm Ngũ L, phường T, TP. P, tỉnh G. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
* Người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Bà Nguyễn Thị Diễm T, sinh năm: 1972.
Địa chỉ: tổ 7, phường T, TP.P, tỉnh G. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hoàng Văn S là người đã 04 lần bị kết án về tội: “Trộm cắp tài sản”, trong đó có 02 lần chưa được xóa án tích; S sống lang thang, không có nơi cư trú và không có nghề nghiệp ổn định. Khoảng 18 giờ 20 phút ngày 05/7/2020, S điều khiển xe mô tô biển số 81N8-0237 đi dạo ở khu vực phường T, TP.P, mục đích tìm cơ hội để trộm cắp tài sản. Khi đi đến khu nhà trọ ở số 38 đường Phạm Ngũ L, tổ 06, phường T, S phát hiện trong phòng trọ số 04 có bà Nguyễn Thị P (sinh năm 1979, trú Tổ 02, phường C, TP.P) đang nằm ngủ và để điện thoại hiệu Oppo F1 sạc pin trên sàn nhà, cửa phòng trọ không đóng. Lúc này khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, S lén lút đi vào phòng lấy chiếc điện thoại di động trên của bà P, rồi ra lấy xe tẩu thoát về hướng về đường Lý Nam Đ. Cùng lúc này, có anh Lê Anh D (sinh năm 1995, trú tại đường Phạm Ngũ L, tổ 06, phường T, TP.P) nhìn thấy và nghi ngờ S vừa trộm cắp tài sản trong phòng trọ của bà P, nên điều khiển xe mô tô đuổi theo. Khi đến trước số nhà 132 đường Lý Nam Đ, TP.P, thì anh D đuổi kịp và chặn S lại; ngay sau đó, anh D báo cáo Công an phường T, TP.P đến đưa S về trụ sở Công an phường làm việc. Tại Công an phường T, S đã đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi lén lút chiếm đoạt điện thoại di động hiệu Oppo F1 của bà P, đồng thời giao nộp lại điện thoại trên. Ngoài ra, Công an phường T còn thu giữ của S xe mô tô biển số 81N8-0237, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 màu hồng-trắng kèm sim số và 12.500.000 đồng (mười hai triệu năm trăm nghìn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Vụ việc sau đó được Công an phường T chuyển đến Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.P xử lý theo thẩm quyền.
Qua yêu cầu định giá, kết luận điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F1 của bà Nguyễn Thị P bị Hoàng Văn S chiếm đoạt ngày 05/7/2020 trị giá 550.000 đồng (năm trăm năm mươi nghìn đồng). Sau khi định giá, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.P đã xử lý trả lại điện thoại trên cho bà P.
Đối với các tài sản thu giữ của Hoàng Văn S, qua điều tra xác định: Xe mô tô biển số 81N8-0237 là tài sản của bà Nguyễn Thị Diễm T (sinh năm 1972, trú tổ 07, phường T, TP.P - là chị dâu của S); ngày 05/7/2020, bị cáo S mượn xe trên để đi công việc riêng, nhưng sau đó sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, thì bà T không biết. Số tiền 12.500.000 đồng là tiền S mượn của bà T để làm ăn, không liên quan đến hành vi trộm cắp tài sản do bị cáo S thực hiện. Điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 màu hồng - trắng kèm sim số là tài sản của bị cáo S, không liên quan đến hành vi trộm cắp tài sản do bị cáo S thực hiện. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.P đã xử lý trả lại xe mô tô 81N8-0237, số tiền 12.500.000 đồng cho bà T và chuyển điện thoại Samsung Galaxy J7 theo vụ án để xử lý.
Về dân sự: Sau khi được nhận lại điện thoại di động hiệu Oppo F1 bị Hoàng Văn S chiếm đoạt, bà Nguyễn Thị P không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự.
Tại bản Cáo trạng số 151/CT - VKS ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh G đã truy tố bị cáo Hoàng Văn S về tội“Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị tuyên bố:
Bị cáo Hoàng Văn S phạm tội: “Trộm cắp tài sản”:
Áp dụng điểm b Khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 50; điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Hoàng Văn S từ: 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.
Về dân sự: bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên không đề cập giải quyết.
Về xử lý vật chứng: Tuyên trả lại cho bị cáo Hoàng Văn S 01 điện thoại di đông hiệu Samsung Galaxy màu trắng – hồng (theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan công an và Chi cục thi hành án dân sự TP.P) Bị cáo không có có ý kiến tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát.
Bị cáo được nói lời nới sau cùng:
- Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo được sớm quay về với gia đình và xã hội
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố P trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]Về hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo có lời khai hoàn toàn phù hợp với các tài liệu chứng cứ, biên bản đầu thú và các lời khai của người bị hại đã thu thập được có tại hồ sơ vụ án. Vì vậy Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định vào khoảng 18 giờ 20 phút ngày 05/7/2020, S điều khiển xe mô tô biển số 81N8-0237 đi dạo ở khu vực phường T, TP.P, mục đích tìm cơ hội để trộm cắp tài sản. Khi đi đến khu nhà trọ ở số 38 đường Phạm Ngũ L, tổ 06, phường T, S phát hiện trong phòng trọ số 04 có bà Nguyễn Thị P đang nằm ngủ và để điện thoại hiệu Oppo F1 sạc pin trên sàn nhà, cửa phòng trọ không đóng. Lúc này khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, S lén lút đi vào phòng lấy chiếc điện thoại di động trên của bà P, rồi ra lấy xe tẩu thoát về hướng về đường Lý Nam Đ. Cùng lúc này, có anh Lê Anh D nhìn thấy và nghi ngờ vừa trộm cắp tài sản trong phòng trọ của bà P, nên điều khiển xe mô tô đuổi theo. Khi đến trước số nhà 132 đường Lý Nam Đ, TP.P, thì anh D đuổi kịp và chặn S lại; ngay sau đó, anh D báo cáo Công an phường T, TP.P đến đưa S về trụ sở Công an phường làm việc. Tại Công an phường T, S đã đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi lén lút chiếm đoạt điện thoại di động hiệu Oppo F1 của bà P, đồng thời giao nộp lại điện thoại trên. Trị giá tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị 550.000đ, đối với tài sản nói trên không đủ định lượng để khởi tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản, tuy nhiên bị cáo đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Vì vậy, việc Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo Hoàng Văn S về tội“Trộm cắp tài sản” theo điểm b Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3]Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, tuy nhiên chỉ vì thỏa mãn nhu cầu tiêu xài cá nhân mà bị cáo đã bất chấp pháp luật, hành vi của bị cáo gây dư luận xấu trong xã hội đồng thời gây ảnh hưởng tình hình trật tự trị an tại địa phương.
Bản thân bị cáo đã có nhiều lần vi phạm pháp luật và đã bị xử phạt bằng hình phạt tù, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại liên tiếp phạm tội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm vào khách thể là tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, vì vậy cần thiết phải có một mức hình phạt thích đáng đối với bị cáo để giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội sau này.
[4] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn và được hưởng tình tiết giảm nhẹ là “Đầu thú” theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, trên đây là những tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo, HĐXX sẽ xem xét cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.
[5] Đối với xe môtô 81N8 -0237 và số tiền 12.500.000đ qua điều tra xác định là tài sản của bà Nguyễn Thị Diễm T, bị cáo S mượn đi công việc và số tiền mượn của bà T để làm ăn, sau đó bị cáo dùng đi trộm cắp bà T không biết và số tiền 12.500.000đ không liên quan đến hành vi trộm cắp nên Cơ quan CSĐT công an TP.P đã trả lại cho bà Tlà đúng quy định của pháp luật.
Đối với điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 màu hồng - trắng kèm theo sim số là tài sản của bị cáo không liên quan gì đến hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo nên cần tuyên trả lại cho bị cáo Hoàng Văn S.
[6]Veà daân söï:
Người bị hại Nguyễn Thị P đã nhận đã nhận lại chiếc điện thoại di động hiệu Oppo F1 do bị cáo Hoàng Văn S chiếm đoạt và không có yêu cầu gì nên HĐXX không đề cập giải quyết.
[7]Về xử lý vật chứng:
Tuyên trả lại cho bị cáo Hoàng Văn S:
- 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu SamSung Galaxy J7, màu hồng – trắng, số Imei: 358860080859049.
Bị cáo phaûi chòu aùn phí hình söï sô thaåm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn S phạm tội: “Trộm cắp tài sản”
2. Về hình phạt:
- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 50; điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51BLHS năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Hoàng Văn S: 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày: 05/7/2020.
3. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS năm 2015:
Tuyên trả lại cho bị cáo Hoàng Văn S - 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu SamSung Galaxy J7, màu hồng – trắng, số Imei: 358860080859049, điện thoại bị bể màn hình (điện thoại cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong) Theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 22/10/2020 giữa Cơ quan CSĐT Công an TP.P với Chi cục thi hành án dân sự TP.P.
4.Về án phí hình sự sơ thẩm:
- Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Buộc bị cáo Hoàng Văn S phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5.Về quyền kháng cáo, thời hạn kháng cáo:
Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay (26/10/2020) bị cáo Hoàng Văn S có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh G để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Riêng đối với những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a,7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án 143/2020/HS-ST ngày 26/10/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 143/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/10/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về