TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, TP ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 143/2020/HS-ST NGÀY 23/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 23 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 148/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 148/2020/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
PHẠM VĂN Đ, tên gọi khác: không có; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 27/9/1998 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi cư trú: Tổ 1, thôn P, xã B, huyện V, thành phố Đà Nẵng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông.
Con ông: Trần Văn T (chết) và bà Phạm Thị M, sinh năm 1971; Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ ba.
Vợ, con: Chưa.
Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ/tạm giam ngày 13/7/2020. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Lê Văn L, sinh năm: 1981; Địa chỉ: Tổ 07 phường B, quận L, thành phố Đà Nẵng. (vắng mặt)
- Ông Đỗ Anh X, sinh năm: 1994; Địa chỉ: Tổ 04 phường N, quận L, thành phố Đà Nẵng. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 11/7/2020, Phạm Văn Đ mượn xe mô tô hiệu Sirius không rõ biển số của một người bạn rồi điều khiển xe mô tô đi đến ngã ba thị trấn P, huyện X, tỉnh Quảng Nam mua của một người đàn ông tên T 09 viên ma túy thuốc lắc với giá 2.700.000đồng cất giấu trong người để sử dụng.
Đến khoảng 21 giờ ngày 13/7/2020, Lê Văn L rủ Đ đến quán bar TV Club đường C, thành phố Đà Nẵng để dự sinh nhật bạn của L thì Đ đồng ý. Đ cất giấu 04 viên ma túy thuốc lắc vào túi quần phía trước bên phải rồi điều khiển xe mô tô Exciter biển số 43F1-32959 chở L đến góc ngã tư đường H- K, thuộc phường T, quận K, thành phố Đà Nẵng thì bị lực lượng Công an 911 và Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an quận Thanh Khê phối hợp bắt quả tang, thu giữ số ma túy như trên.
Ngoài ra Đ còn khai nhận: vào khoảng 21 giờ ngày 12/7/2020, Đ đến quán Karaoke N đường S, quận L, TP. Đà Nẵng để hát Karaoke với nhóm bạn của người tên Hùng, tại đây Đ có đem ra sử dụng hết 05 viên ma túy thuốc lắc, còn 4 viên ma túy thuốc lắc còn lại, Đ cất giấu trong người. Kết quả điều tra do không xác định được nhân thân lai lịch của nhóm bạn và thanh niên tên Hùng cũng như không thu giữ được chất ma túy, chỉ có lời khai nhận tội duy nhất của Đ nên căn cứ khoản 2 Điều 98 của Bộ Luật tố tụng hình sự không đủ căn cứ để kết luận và truy cứu trách nhiệm hình sự Phạm Văn Đ đối với hành vi Tổ chức sử dụng ma túy.
Kết quả thử test nước tiểu Phạm Văn Đ và Lê Văn L dương tính với ma tuý.
* Tang vật tạm giữ:
- 01 gói nilong bên trong chứa 04 viên nén màu xanh hình răng cưa trên mỗi mặt có hình chiếc vương miện, theo Đ khai nhận là ma túy thuốc lắc cất giấu nhằm mục đích để sử dụng, được niêm phong, ký hiệu là G1.
- 01 điện thoại di động Iphone màu vàng có số Imei 353333072727041; gắn số sim 0905491520 (của Đ liên lạc cá nhân) - 01 túi xách màu đen.
- Số tiền 350.000 đồng (tiền cá nhân của Đ) - 01 xe mô tô Yamaha Exciter, biển số: 43F1-329.59.
- 01 điện thoại di động hiệu SamSung Glaxy J7 Pro màu vàng nhạt có số Imei 356202095285526, gắn số sim: 0388332298 (của Lê Văn L sử dụng liên lạc cá nhân).
* Bản Kết luận giám định số: 222/GĐ-MT ngày 21/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận:
“Mẫu viên nén trong bì niêm phong ký hiệu G1 gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng tinh thể G1: 1,410 gam”
* Xử lý tang vật, tài sản thu giữ:
+ Đối với xe mô tô hiệu xe mô tô Yamaha Exciter , biển số: 43F1-329.59 do anh Đỗ Anh X (sinh năm 1994; trú: phường N, quận L, thành phố Đà Nẵng) đứng tên chủ sở hữu. Vào ngày 13/7/2020 anh Xuân cho Đ mượn xe để đi công việc và không biết việc Đ dùng xe này thực hiện hành vi phạm tội. Đến ngày 08/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả lại chiếc xe mô tô nêu trên cho anh Xuân là có căn cứ.
+ Đối với ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 222/GĐ-MT ngày 21/7/2020, có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng; 01 điện thoại di động Iphone màu vàng số Imei 353333072727041, gắn số sim 0905491520; 01 điện thoại di động hiệu SamSung Glaxy J7 Pro màu vàng nhạt có số Imei 356202095285526, gắn số sim: 0388332298; 01 túi xách màu đen; số tiền 350.000 đồng tiếp tục tạm giữ để chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Khê quản lý, bảo quản trong giai đoạn xét xử.
Tại Bản Cáo trạng số 149/CT-VKS ngày 23/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Phạm Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm đã truy tố, đề nghị HĐXX căn cứ vào tính chất vụ án, nhân thân, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Phạm Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và:
Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Phạm Văn Đ mức án từ 18 tháng đến 21 tháng tù giam.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:
- Tịch thu, tiêu hủy: Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 222/GĐ-MT ngày 21/7/2020, có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng và 01 túi xách màu đen.
- Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Iphone màu vàng số Imei 353333072727041, gắn số sim 0905491520 thu giữ của Phạm Văn Đ.
- Trả cho bị cáo Phạm Văn Đ số tiền 350.000 đồng nhưng cần tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.
- Trả cho Lê Văn L 01 điện thoại di động hiệu SamSung Glaxy J7 Pro màu vàng nhạt có số Imei 356202095285526, gắn số sim: 0388332298.
(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 12 tháng 11 năm 2020 và biên lai thu tiền số 007468 ngày 12 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê).
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, rất ăn năn hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát quận Thanh Khê, Kiểm sát viên đều hợp pháp.
[2] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thì thấy: Qua xem xét lời khai nhận tội của bị cáo, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng như các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 11/7/2020, Phạm Văn Đ đi đến ngã ba thị trấn P, huyện X, tỉnh Quảng Nam để mua 09 viên ma túy thuốc lắc với giá 2.700.000đ của một người đàn ông tên T.
Đến khoảng 21 giờ ngày 13/7/2020, Phạm Văn Đ điều khiển xe mô tô Exciter biển số 43F1-32959 chở Lê Văn L đến quán bar TV Club đường C, thành phố Đà Nẵng để dự sinh nhật bạn của L. Khi đến góc ngã tư đường H- K, thuộc phường T, quận K, thành phố Đà Nẵng thì bị lực lượng Công an 911 và Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an quận Thanh Khê phối hợp bắt quả tang, thu giữ số ma túy như trên.
Qua giám định, khối lượng ma túy Phạm Văn Đ tàng trữ để sử dụng trái phép là 1,410 gam loại MDMA.
Hành vi của Phạm Văn Đ đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng số 149/CT- VKS ngày 23 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo có tính chất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền trong việc quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo đủ khả năng nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy đang là tệ nạn của xã hội, là nguyên nhân của các tội phạm khác gây mất an ninh trật tự, sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi giống, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, nhưng bị cáo vẫn phạm tội.
Bị cáo Phạm Văn Đ là người chưa có tiền án, tiền sự nhưng do đua đòi, ăn chơi nên lao vào con đường nghiện ngập. Bị cáo trực tiếp đi mua 09 viên ma túy thuốc lắc cất giấu trong người để sử dụng.
Do vậy, cần phải xét xử nghiêm, hình phạt đối với bị cáo phải thỏa đáng và tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo để bị cáo có điều kiện cải tạo tu dưỡng để trở thành công dân có ích cho xã hội.
Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn Đ đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần được áp dụng cho bị cáo.
Từ những phân tích trên, xét lời luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê về tội danh là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý các vật chứng trong vụ án, cụ thể như sau:
- Đối với ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 222/GĐ-MT ngày 21/7/2020, có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng là vật cấm lưu hành, 01 túi xách màu đen để đựng ma túy là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.
- Đối với 01 điện thoại di động Iphone màu vàng số Imei 353333072727041, gắn số sim 0905491520, số tiền 350.000 đồng (Đ sử dụng điện thoại và số tiền trên vào mục đích cá nhân); là các tài sản cá nhân của Phạm Văn Đ không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho Phạm Văn Đ nhưng cần tiếp tục quy trữ số tiền 350.000 đồng để đảm bảo thi hành án.
- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Glaxy J7 Pro màu vàng nhạt có số Imei 356202095285526, gắn số sim: 0388332298. Đây là tài sản cá nhân của Lê Văn L nên trả lại cho Lê Văn L.
[5] Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Phạm Văn Đ phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[6] Đối với xe mô tô hiệu xe mô tô Yamaha Exciter , biển số: 43F1-329.59 do anh Đỗ Anh X đứng tên chủ sở hữu. Vào ngày 13/7/2020 anh Xuân cho Đ mượn xe để đi công việc và không biết việc Đ dùng xe này thực hiện hành vi phạm tội. Đến ngày 08/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả lại chiếc xe mô tô nêu trên cho anh Xuân là có căn cứ. Hội đồng xét xử thấy phù hợp.
[7] Đối với người thanh niên tên T là người bán ma túy cho Đ không rõ nhân thân lai lịch cụ thể, Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau, Hội đồng xét xử thấy phù hợp.
[8] Phạm Văn Đ có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê đã ra quyết định xử phạt hành chính là có căn cứ, Hội đồng xét xử thấy đúng quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào Điểm c khoản 1 Ðiều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn Đ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13 tháng 7 năm 2020.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên:
- Tịch thu, tiêu hủy: Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 222/GĐ-MT ngày 21/7/2020, có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng và 01 túi xách màu đen.
- Trả lại cho bị cáo Phạm Văn Đ: 01 điện thoại di động Iphone màu vàng số Imei 353333072727041, gắn số sim 0905491520 và số tiền 350.000 đồng nhưng cần tiếp tục quy trữ số tiền 350.000 đồng để đảm bảo thi hành án.
- Trả lại cho Lê Văn L 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Glaxy J7 Pro màu vàng nhạt có số Imei 356202095285526, gắn số sim: 0388332298.
(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 12 tháng 11 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận Thanh Khê và Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê; Biên lai thu tiền số 007468 ngày 12 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê).
3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về việc “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án” của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Phạm Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 23/11/2020). Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.
Bản án 143/2020/HS-ST ngày 23/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 143/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về