Bản án 143/2019/HS-ST ngày 06/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ C, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 143/2019/HS-ST NGÀY 06/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 142/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 137/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

1. Lê K, sinh năm 1987, tại tỉnh Kiên Giang; hộ khẩu thường trú: Ấp 3, xã N, huyện Q, tỉnh Kiên Giang; tạm trú: Ấp G, xã A, thị xã C, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê H và bà Võ T (đã chết); có vợ tên Trần H và 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam ngày 09/5/2019 (có mặt).

2. Huỳnh T, sinh năm 1994, tại thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: Số 295/53 đường H, phường 13, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh; tạm trú: Ấp G, xã A, thị xã C, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh N và bà Diệp Y; có vợ tên Nguyễn T; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam ngày 09/5/2019 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê K và Huỳnh T là bạn bè quen biết với nhau từ tháng 04/2019. K sử dụng trái phép chất ma túy từ cuối năm 2017. Nguồn ma túy K có để sử dụng là do một người bạn ngoài xã hội tên T (không rõ nhân thân lai lịch) ở phường A, thành phố M, tỉnh Bình Dương cho K để sử dụng chung.

Lúc 23 giờ 30 phút ngày 08/5/2019, K cùng T và U (không rõ nhân thân lai lịch) uống rượu tại quán không tên trên đường DT744 thuộc ấp G, xã A, thị xã C, tỉnh Bình Dương. Tại đây, K và T bàn bạc đi mua ma túy về để sử dụng. T nói T không có tiền, K nói sẽ bỏ tiền ra mua và cho T sử dụng chung. T đồng ý. K điện thoại cho T nhờ hỏi mua giúp 200.000 đồng ma túy cùng 01 chiếc nỏ thủy tinh dùng để sử dụng ma túy. T đồng ý nhưng yêu cầu K đến phòng trọ của mình tại phường A, thành phố M, tỉnh Bình Dương để uống rượu sau đó mới giúp Kh liên lạc mua ma túy. K đồng ý.

Lúc 00 giờ ngày 09/5/2019, K nhờ U điều khiển xe mô tô của U chở Kvà T đến khu vực cầu C thuộc phường A, thành phố M, tỉnh Bình Dương. Khi đến nơi, K và T đi bộ vào nhà trọ của T gặp T, còn U điều khiển xe đi về. T, K, T uống rượu trước cửa khu nhà trọ của T. Đến 01 giờ 20 phút cùng ngày, T điện thoại cho D (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua 200.000 đồng ma túy đá cùng 01 nỏ thủy tinh để sử dụng ma túy với giá là 100.000 đồng. D đồng ý. Sau đó, T đi vào phòng trọ ngủ. K đưa cho T cất giữ số tiền 200.000 đồng để mua ma túy. Đến khoảng 01 giờ 30 phút cùng ngày, K sử dụng điện thoại của T gọi cho D để hỏi địa điểm giao dịch mua ma túy. D hẹn K đến khu vực trước cổng nhà nghỉ L thuộc phường A, thành phố M, tỉnh Bình Dương. K đồng ý và đưa tiếp cho T 200.000 đồng nữa để mua ma túy. Sau đó Kvào hỏi mượn xe mô tô hiệu Wave biển số 92N7 1734 của T để đi về nhà. K điều khiển xe mô tô biển số 92N7 1734 chở T đi đến điểm hẹn gặp D, T đưa cho D số tiền 300.000 đồng. D đưa cho Tuấn 01 (một) vỏ gói thuốc lá hiệu CRAVEN màu đỏ, bên trong có 01 (một) nỏ thủy tinh dùng để sử dụng ma túy và 01 (một) đoạn ống hút nhựa không màu hàn kín chứa chất màu trắng dạng tinh thể. Sau đó, K điều khiển xe mô tô biển số 92N7 1734 chở T quay về nhà tại ấp G, xã A, thị xã C, tỉnh Bình Dương để sử dụng ma túy. K và T đi đến khu vực trước nhà bà Nguyễn T trên đường DT744 thuộc ấp T, xã A thì bị lực lượng Công an yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Lúc này, T ném đoạn ống hút nhựa hàn kín chứa ma túy đá xuống đường cách vị trí xe dừng 05 mét đồng thời thả vỏ gói thuốc lá hiệu CRAVEN màu đỏ xuống đường tại vị trí Tuấn đang đứng nhưng bị lực lượng công an phát hiện, bắt giữ, vật thu giữ gồm:

- 01 đoạn ống hút nhựa màu trong suốt hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng, 01 vỏ gói thuốc lá hiệu CRAVEN màu đỏ, bên trong có 01 ống thủy tinh, tiền mặt 100.000 đồng, 01 điện thoại di động NOKIA màu đen, bên trong gắn hai sim số 0933232839 và 0934299029 của Huỳnh T.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu WAVE, biển số 92N7 1734, số máy VVNZS150FMG023678, số khung VVNDCG033VN023678 của Lê Văn Khanh.

Theo Kết luận giám định số 371 ngày 13/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xac đinh: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng/trọng lượng là 0,2129gam; loại Methamphetamine. Mẫu vật sau giám định được niêm phong, có trọng lượng 0,2129gam Methamphetamine.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu WAVE biển số 92N7 1734, số máy VVNZS150FMG023678, số khung VVNDCG033VN023678 do Nguyễn Đ (sinh năm 1980; HKTT: (Thôn 6), xã L, huyện B, tỉnh Quảng Nam) đứng tên chủ sở hữu. Quá trình xác minh, Nguyễn Đ không có mặt tại địa phương, đi đâu làm gì không rõ. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành thông báo trên trang báo Tuổi Trẻ để truy tìm chủ sở hữu hợp pháp nhưng đến nay không có ai đến nhận.

Tại bản Cáo trạng số 162/CT-VKS ngày 26 tháng 8 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Lê K và Huỳnh T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 Xử phạt bị cáo Lê K mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Huỳnh T mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bì thư dán kín số 371/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong có chứa trọng lượng 0,2129gam Methamphetamine; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Craven màu đỏ bên trong có 01 ống thủy tinh;

Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen bên trong gắn sim số 0933232839; 0934299029 và số tiền 100.000 đồng do bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước xe mô tô nhãn hiệu Wave biển số 92N7 - 1734.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã C, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Lúc 02 giờ 10 phút ngày 09/5/2019, tại khu vực trước nhà bà Nguyễn T trên đường DT744 thuộc ấp T, xã A, thị xã C, tỉnh Bình Dương, Lê K và Huỳnh T có hành vi tàng trữ 01 bịch ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng 0,2129gam nhằm mục đích sử dụng.

Theo Kết luận giám định số 371 ngày 13/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có trọng lượng là 0,2129gam; loại Methamphetamine. Mẫu vật sau giám định có trọng lượng 0,2129gam Methamphetamine.

Các bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Như vậy, hành vi của bị cáo K và T mua 0,2129gam Methamphetamine của đối tượng tên D cất giấu nhằm mục đích sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Do đó, Cáo trạng số 162/CT-VKSBC ngày 26 tháng 8 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố các bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của Nhà nước. Bị cáo biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Hôi đồng xet xư thấy cần xư phat bi cao vơi mưc an tương ưng vơi tinh chất, mức độ của hanh vi pham tội nhưng co xem xet đến cac tinh tiết tăng năng, giảm nhe trach nhiêm hinh sư cung như nhân thân cua bi cao nhằm giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội và phòng ngừa chung.

Các bị cáo phạm tội với tính chất đồng phạm, cùng bàn bạc và phối hợp thực hiện hành vi đi mua ma túy về sử dụng. Do vậy, xét về tính chất, mức độ phạm tội thì bị cáo K và T vai trò ngang nhau nên các bị cáo phải chịu mức phạt cao tương đương nhau.

[3] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy mẫu vật sau giám định được niêm phong, trọng lượng 0,2129gam Methamphetamine; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Craven màu đỏ bên trong có 01 ống thủy tinh;

Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nkia màu đen bên trong gắn 01 sim số 0933232839, 0934299029 và số tiền 100.000 đồng do bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước xe mô tô nhãn hiệu Wave biển số 92N7-1734 số máy VVNZS150FMG023678; số khung VVNDCG033VN023678.

[5] Xét lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều khoản, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ và phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, 58 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo Lê K và Huỳnh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê K từ 01 năm 06 tháng tù.

Thời hạn tù được tính từ ngày 09/5/2019.

Xử phạt bị cáo Huỳnh T 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 09/5/2019.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư dán kín số 371/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong có chứa 0,2129gam Methamphetamine; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Craven màu đỏ bên trong có 01 ống thủy tinh;

Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nkia màu đen bên trong gắn 01 sim số 0933232839; 0934299029; xe mô tô nhãn hiệu Wave biển số 92N7 1734 số máy VVNZS150FMG023678, số khung VVNDCG033VN023678 và số tiền 100.000 đồng (giấy nộp tiền vào tài khoản số 394901046035 tại kho bạc Nhà nước thị xã Bến Cát ngày 26/8/2019).

(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26/8/2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát và Công an thị xã Bến Cát)

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 143/2019/HS-ST ngày 06/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:143/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về