Bản án 143/2018/HS-ST ngày 14/09/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU,TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 143/2018/HS-ST NGÀY 14/09/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 150/2018/TLST- HS ngày 13 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 148/2018/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2018 đối với:

* Bị cáo: La Văn Đ, sinh năm 1993. ĐKHKTT: B, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An

Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12

Dân tộc: thái; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam

Con ông La Văn Đ, SN 1963 và bà Vang Thị H, SN 1963

Vợ: Vi Thị Hoài N, SN 1996; con: chưa có

Tiền án, tiền sự: không

Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 05/6/2018 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Chị Vi Thị P, sinh năm 1996 (vắng mặt)

Địa chỉ: xóm 9, xã K, huyện Y, tỉnh T

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Đào Văn T, sinh năm 1985 (vắng mặt) Địa chỉ: thôn M, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 4 giờ 30 phút, ngày 01/6/2018 tại trạm dừng xe đón công nhân trên đường TS 11, thôn M, xã H, huyện T, tỉnh B, La Văn Đ đã có hành vi cướp giật 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y55S vỏ màu vàng của chị Vi Thị P, sinh năm 1996 ở xóm 9, xã K, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Sau đó Đ mang bán chiếc điện thoại trên cho anh Đào Văn T, sinh năm 1985 ở thôn M, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh được 600.000 đồng. Số tiền có được Đ chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tiên Du ngày 06/6/2018 kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y55S vỏ màu vàng đã qua sử dụng, giá trị còn lại là 1.500.000 đồng.

Với nội dung trên, bản cáo trạng số 106/CT-VKS ngày 10/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Tiên Du để xét xử đối với bị cáo La Văn Đ về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 171 BLHS.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: khoảng 23 giờ ngày 31/5/2018 bị cáo đi bộ từ phòng trọ đến quán điện tử để chơi game, đến 4 giờ ngày 01/6/2018 thì bị cáo về phòng trọ. Trên đường về, do hết tiền chi tiêu nên bị cáo đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của người khác. Bị cáo biết thời gian này có một số công ty hết ca làm nên bị cáo đi bộ ra đường TS 11. Tại đây bị cáo thấy có 2 công nhân nữ đang đứng ở trạm dừng xe đón trả công nhân. Bị cáo thấy 1 chị đang cầm chiếc điện thoại di động trên tay, nên bị cáo chạy nhanh đến, dùng tay phải giật chiếc điện thoại rồi nhanh chóng bỏ chạy về phía khu đất trống phía sau trạm dừng xe, để về phòng trọ. Trên đường về phòng trọ bị cáo tháo chiếc ốp lưng điện thoại vứt xuống mương nước và tắt nguồn điện thoại. Đến 14 giờ cùng ngày, bị cáo tháo chiếc simcard điệnthoại vứt đi rồi mang đến quán N bán cho anh T ở thôn  M, xã H được 600.000 đồng. Khi bị cáo bán điện thoại, anh T không biết đây là chiếc điện thoại bị cáo cướp giật mà có. Số tiền bán điện thoại bị cáo ăn tiêu hết. Ngày 22/7/2018 bị cáo đã trả lại cho anh T số tiền 600.000 đồng

Người bị hại là chị Vi Thị P vắng mặt tại phiên tòa, quá trình điều tra chị P đã trình bày rõ sự việc bị cướp giật chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y55S. Đến nay chị đã nhận lại được chiếc điện thoại và không có ý kiến gì. Đối với chiếc ốp lưng và simcard của điện thoại có giá trị nhỏ nên chị không yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho chị.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Đào Văn T vắng mặt tại phiên tòa, quá trình điều tra anh T trình bày: anh không biết chiếc điện thoại đã mua của bị cáo Đ là điện thoại do cướp giật mà có. Nên anh đã tự nguyện giao nộp chiêc điện thoại trên cho cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Du để xử lý theo pháp luật. Ngày 22/7/2018 bị cáo Đ đã trả cho anh số tiền 600.000đ và anh không có yêu cầu gì đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo Cáo trạng số 106/CT- VKSTD ngày 10/8/2018. Trong phần luận tội đã phân tích nguyên nhân, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo La Văn Đ phạm tội “Cướp giật tài sản”

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 171, điểm b, s khoản 1 điều 51, điều 38 BLHS. Xử phạt bị cáo Đ từ 15 đến 20 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu gì đối với bị cáo, nên không đề nghị HĐXX xem xét giải quyết.

Về vật chứng: chiếc điện thoại Vivo Y55S vỏ màu vàng đã được trả lại cho người bị hại. Đối với chiếc ốp lưng và simcard của điện thoại chưa thu hồi được nên không đề nghị giải quyết.

Bị cáo không tranh luận với Đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt áp dụng mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời trình bày của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Do không có tiền chi tiêu, nên khoảng 4 giờ 30 phút ngày 01/6/2018, tại trạm dừng xe đón trả công nhân trên đường TS 11 thôn M, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, bị cáo Đ đã có hành vi giật chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y55S vỏ màu vàng, trị giá 1.500.000 đồng của chị Vi Thị P. Hành vi của bị cáo là công khai chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát. Do đó, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 171 BLHS. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây hoang mang, lo lắng cho người có tài sản, gây bất bình trong quần chúng nhân dân và dư luận xấu trong xã hội. Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa chung trong nhân dân.

Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đồng thời bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nên bị cáo được hưởng các tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 điều 51 BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét nguyên nhân, mục đích phạm tội của bị cáo thì thấy: bị cáo là đối tượng ham chơi, lười lao động. Bị cáo từ quê Nghệ An đến địa bàn huyện Tiên Du để tìm việc làm nuôi sống bản thân nhưng không chịu khó làm ăn mà lại đi cướp giật tài sản của người khác để bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Do đó, đối với lần phạm tội này, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân sống có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng, do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về vật chứng: Chiếc điện thoại Vivo Y55S vỏ màu vàng đã được trả lại cho người bị hại là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với chiếc ốp lưng và simcard của điện thoại chưa thu hồi được nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 136 Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo La Văn Đ phạm tội “Cướp giật tài sản”

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo La Văn Đ 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 143/2018/HS-ST ngày 14/09/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:143/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:14/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về