TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 142/2021/HS-ST NGÀY 08/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 9 năm 2021, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 113/2021/TLST-HS ngày 18 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 194/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2021, đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Tiến Đ (tên gọi khác: không); sinh năm: 1989 tại tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: thôn Phú Liên, xã QuL, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Đánh cá; trình độ học vấn: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Quang D và bà: Vũ Thị Nh; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 20/3/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu xử phạt 17 (mười bảy) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (bản án số 16/2018/HSST), chấp hành xong hình phạt ngày 10/3/2019 (Giấy chứng nhận số 255/GCN-TGS3); bị tạm giữ, tạm giam: từ ngày 12/5/2021 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: chị Trần Thị Th, sinh năm 1987. Nơi cư trú: thôn Phú Thành, xã QuL, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
- Người chứng kiến:
1. Anh Trần Văn C, sinh năm 1990. Vắng mặt.
2. Anh Hồ Văn T, sinh năm 1982. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 19h ngày 11/5/2021, Trần Tuấn A rủ Trần Tiến Đ mua ma túy để cùng sử dụng, Đ nói hết tiền rồi, thì Tuấn A nói Tuấn A đi vay tiền, còn Đ đi mượn xe. Đạt đến nhà chị Trần Thị Th mượn xe máy biển kiểm soát 37P8-2899 đi sang nhà Tuấn A. Tại nhà Tuấn A có bạn gái của Tuấn A là Nguyễn Thị Ngọc Á cũng đòi đi cùng, nên Tuấn A điều khiển xe chở Đ và Ngọc Á đi sang khu vực xã Diễn Ngọc, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An mua ma túy. Trên đường về tại cánh đồng vắng cả ba dừng xe sử dụng một ít, số còn thừa, Tuấn A đưa cho Đ cầm trên tay. Sau đó, cả ba đi đến quán nước khu vực nhà văn hóa thôn Trường Thịnh, xã Quỳnh Thuận, huyện Quỳnh Lưu. Tuấn A và Ngọc Á vào mua nước, thuốc lá, Đ đứng đợi bên xe máy phát hiện thấy công an nên vứt gói thuốc đựng ma túy xuống và bỏ chạy thì bị Công an xã Quỳnh Long và Quỳnh Thuận bắt quả tang, thu giữ 01 (một) gói thuốc lá màu vàng bên trong có gói giấy bạc chứa chất bột màu trắng, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu trắng đen và 01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda AirBlade màu đen biển kiểm soát 37P8- 2899.
Ngày 12/5/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Lưu tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng, trưng cầu giám định toàn bộ chất bột màu trắng thu giữ của Trần Tiến Đ. Tại Kết luận giám định số 711/KL- PC09(Đ2-MT), ngày 14/5/2021, phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Trần Tiến Đạt gửi tới giám định là ma túy (Heroine), có khối lượng 0,115 gam (không phẩy một trăm mười lăm gam).
Bản cáo trạng số 125/CT-VKS-QL ngày 17/6/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu truy tố bị cáo Trần Tiến Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Tiến Đ từ 15-18 tháng tù.
Hình phạt bổ sung: không áp dụng.
Vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì thư bưu điện được niêm phong bên trong chứa 01 (một) phong bì niêm phong đã mở, vỏ gói giấy màu vàng, vỏ gói giấy bạc. Tịch thu, sung ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masttel màu trắng đen, bên trong có gắn thẻ sim Viettel số 0963.017.242 của bị cáo Trần Tiến Đ.
Án phí: buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo Trần Tiến Đ khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, không tranh luận gì về tội danh. Lời nói sau cùng: xin Hội đồng xét xử cho bị cáo thêm một cơ hội, giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Lưu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Tiến Đ khai nhận: vào lúc 22h ngày 11/5/2021 bị cáo đang cầm trong tay 0,115 gam (không phẩy một trăm mười lăm gam) ma túy Heroine để sử dụng, thì bị tổ công tác Công an xã Quỳnh Long phối hợp với Công an xã Quỳnh Thuận bắt quả tang tại khu vực nhà văn hóa thôn Trường Thịnh, xã Quỳnh Thuận, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Bị cáo đã có hành vi cất dấu 0,115 gam (không phẩy một trăm mười lăm gam) ma túy Heroine để sử dụng, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền, thống nhất quản lý các chất ma túy của Nhà nước, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự. Phạm tội với lỗi cố ý. Như vậy, hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như cáo trạng truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Ma túy là một tệ nạn xã hội nguy hiểm, đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi giống, làm suy kiệt kinh tế của mỗi gia đình, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, vừa được xóa án tích về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” lại tiếp tục phạm tội về ma túy nên cần cách ly ra ngoài xã hội một thời gian, mới có đủ điều kiện để cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng cần xem xét bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, bố đẻ là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng Huy chương chiến sỹ vẻ vang, bản thân bị cáo được cấp Lữ đoàn tặng danh hiệu chiến sỹ tiên tiến năm 2009 khi tham gia quân đội, nên áp dụng quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoa hồng của pháp luật. Xử phạt với mức như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.
[4] Hình phạt bổ phải sung: khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…”. Xét bị cáo làm nghề đánh cá, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
[5] Xử lý vật chứng: 01 (một) phong bì thư bưu điện được niêm phong bên trong có 01 (một) phong bì thư bưu điện đã mở niêm phong, vỏ gói giấy màu vàng, vỏ gói giấy bạc là vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy. Điện thoại di động nhãn hiệu Masttel bị cáo sử dụng để liên lạc với Trần Tuấn A để đi mua ma túy nên tịch thu, sung ngân sách Nhà nước. Xe máy nhãn hiệu Honda Air Blade biển kiểm soát 37P8-2899 của chị Trần Thị Th, chị Th cho bị cáo mượn nhưng không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy nên cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Th là đúng quy định pháp luật.
[6] Về những vấn đề khác: cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa bị cáo Trần Tiến Đ với Trần Tuấn A và Nguyễn Thị Ngọc Á, nhưng Tuấn A, Ngọc Á không thừa nhận đi mua ma túy cùng với Đ. Kiến nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ hành vi của Tuấn A và Ngọc Á để xử lý theo quy định của pháp luật.
[7] Về án phí hình sự: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Tiến Đ 15 (mười lăm) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 12/5/2021).
2. Xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì thư bưu điện bên trong có chứa 01 (một) phong bì niêm phong đã mở, vỏ gói giấy màu vàng, vỏ gói giấy bạc. Tịch thu, sung ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di dộng nhãn hiệu Masttel màu trắng đen, số Imeil1: 353872081467859, Imeil2: 353872081467867, bên trong gắn thẻ sim Viettel số 0963.017.242 của bị cáo Trần Tiến Đ. (Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/6/2021 giữa Công an huyện Quỳnh Lưu và Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳnh Lưu).
3. Án phí: áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 buộc bị cáo Trần Tiến Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 142/2021/HS-ST ngày 08/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 142/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về