TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 142/2020/HS-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TỘI BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT
Trong ngày 24 tháng 12 năm 2020, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 139/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 136/2020/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Thị N, tên gọi khác: Không có; sinh ngày:
08/11/1978, tại huyện K, tỉnh H. Nơi cư trú: Tổ 8, khu 2, phường V, thành phố U, tỉnh Q; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông: Nguyễn Đức B (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; chồng: Nguyễn Khắc Đ, sinh năm 1971 và có 02 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt ngày 01/9/2020 tạm giữ đến ngày 10/9/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” hiện tại ngoại nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Nguyễn Thị S, tên gọi khác: Không có; sinh ngày: 25/11/1988, tại tại huyện K, tỉnh H. Nơi cư trú: Tổ 39, khu 11, phường Q, thành phố U, tỉnh Q; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông: Nguyễn Đức B (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; chồng: Trần Văn M, sinh năm 1981 và có 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không; bị cáo đầu thú ngày 02/9/2020 tạm giữ đến ngày 10/9/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” hiện tại ngoại nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
3. Họ và tên: Nguyễn Văn T, tên gọi khác: Không có; sinh ngày:
09/02/1996, tại huyện K, tỉnh H. Nơi cư trú: Khu dân cư D.N, phường P, thị xã K, tỉnh H; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông: Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị N; vợ: Đỗ Thị T, sinh năm 2000 và có 02 con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt ngày 02/9/2020 tạm giữ đến ngày 10/9/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” hiện tại ngoại nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
4. Họ và tên: Đỗ Thị T, tên gọi khác: Không có; sinh ngày: 24/4/2000, tại thị xã Đ, tỉnh Q. Nơi cư trú: Khu dân cư D.N, phường P, thị xã K, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông: Đỗ Văn Q và bà Nguyễn Thị H; chồng: Nguyễn Văn T, sinh năm 1996 và có 02 con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: không; bị cáo hiện tại ngoại nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
5. Họ và tên: Lê Văn T, tên gọi khác: Không có; sinh ngày: 20/9/1997, tại thị xã K, tỉnh H. Nơi cư trú: Xóm 8, khu L.Đ, phường P, thị xã K, tỉnh H; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông: Lê Văn B và bà Nguyễn Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị cáo đầu thú ngày 17/10/2020 tạm giữ đến ngày 20/10/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” hiện tại ngoại nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
6. Họ và tên: Ngô Văn H, tên gọi khác: Không có; sinh ngày: 03/3/1997, tại thị xã K, tỉnh H. Nơi cư trú: Khu dân cư T.X, phường D, thị xã K, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông: Ngô Văn H1 và bà Nguyễn Thị P; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị cáo hiện tại ngoại nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Chị Đinh Thị H, sinh năm: 1974; địa chỉ: Tổ 1, khu 9, phường V, thành phố U, tỉnh Q, vắng mặt (có đơn xin xử vắng mặt).
- Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Văn D, sinh năm: 1973; địa chỉ: Tổ 1, khu 8, phường V, thành phố U, tỉnh Q, vắng mặt .
2. Anh Nguyễn Khắc Đ, sinh năm: 1971; địa chỉ: Tổ 8, khu 2, phường V , thành phố U, tỉnh Q, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Khắc Đ là vợ chồng. Ngày 31/8/2020, N phát hiện anh Đ nhắn tin tình cảm đối với chị Đinh Thị H qua tài khoản Facebook và hẹn nhau ngày 01/9/2020 cùng đi mua đồng hồ tại phường Q, thành phố U. Nghi ngờ anh Đ ngoại tình với chị H, N nảy sinh ý định theo dõi, bắt quả tang anh Đ và chị H. N gọi điện rủ em gái là chị Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị S và 02 cháu họ, cháu dâu là Nguyễn Văn T, Đỗ Thị Th đi cùng. Khoảng 11 giờ ngày 01/9/2020, T điều khiển xe ô tô Kia Sorento, biển kiểm soát (BKS): 34A-348… chở Th cùng Lê Văn T và Ngô Văn H (cùng là bạn của vợ chồng T) đi thành phố U. Đến phường Y, thành phố U, T đón S lên xe. Trên xe, T có nói chuyện và rủ T1, H cùng đi theo dõi chồng của N ngoại tình. T1 và H đồng ý. Khi đến nhà chị L ở phường V, thành phố U, cả bọn gặp N và bàn bạc việc đi theo dõi anh Đ, sau đó N đi về nhà. Khoảng 13 giờ cùng ngày, khi thấy anh Đ ra khỏi nhà, N thông báo cho cả bọn bắt đầu đi theo dõi, đi cùng còn có 02 con của N là cháu Nguyễn Khắc K (sinh ngày 22/12/2002) và cháu Nguyễn Thu T (sinh ngày 16/01/2006). Khoảng 15 giờ cùng ngày, N cùng những người trên đi theo anh Đ và thấy anh Đ, chị H cùng vào mua đồng hồ tại một cửa hiệu ở khu vực chợ Trung tâm, thuộc phường Q, thành phố U, rồi sau đó cùng đi đến quán nước của gia đình ông Nguyễn Đình S, thuộc tổ 4, khu 2, phường T, thành phố U. N cùng cả nhóm đứng ở vỉa hè đường gần quán nước bàn bạc. N nói với cả nhóm vào bắt quả tang anh Đ và chị H rồi đưa chị H về nhà N để nói chuyện. N bảo T điều khiển xe ô tô đỗ trước cửa quán để đưa chị H lên xe. Sau khi thống nhất, cả nhóm vào trong quán nước đến bàn anh Đ, chị H đang ngồi. N và S chửi mắng, yêu cầu chị H đi cùng về nhà N nói chuyện, nhưng chị H không đồng ý. Thấy vậy, N và S cùng túm tay, tóc, áo chị H kéo ra ngoài. T1 và H đẩy sau lưng chị H hướng về phía cổng, Th cũng vào cầm tay chị H. Chị H bám 02 tay vào cánh cổng sắt, thì N, S, Th, T, T1 và H cùng vào gỡ tay chị H ra khỏi cổng, sau đó N, S, Th tiếp tục cầm tay, túm áo, tóc chị H kéo ra cổng; Th, N còn dùng tay chân tát, đạp vào người chị H. Do không chống cự được, chị H buông tay thì bị N, S, H cầm tay kéo còn T, T1 đẩy lưng chị H ra xe ô tô BKS 34A-348… của T đỗ trước cửa quán. Chị H bị đẩy lên ngồi ở hàng ghế sau xe (ngồi giữa Th và cháu Th), S ngồi ghế phụ bên lái, T điều khiển xe ô tô. Những người còn lại thì đi taxi và xe mô tô đi theo sau về nhà N. Trên xe, S và Th tiếp tục tra hỏi chị H về mối quan hệ với anh Đ, S còn dùng tay tát chị H 01 nhát. Khoảng 16 giờ cùng ngày, cả nhóm đưa chị H về đến nhà N ở tổ 8, khu 2, phường V, thành phố U; bắt chị H ngồi ở ghế phòng khách nói chuyện và xin lỗi về việc có quan hệ bất chính với anh Đ. Sau đó, T lái xe đưa T1 và H về nhà. (bút lục số 288-291, 361-364 và 427-430) Trong lúc chị H bị nhóm N đưa lên xe thì anh Đ gọi điện báo Công an phường V, thành phố U. Khi chị H bị đưa về giữ ở nhà N được khoảng 15 phút thì lực lượng Công an đã đến kiểm tra, đưa chị H cùng N, S, Th và L đến trụ sở làm việc. Ngày 02/9/2020 và ngày 20/10/2020, T và H được triệu tập đến Cơ quan điều tra làm việc còn T1 đến Cơ quan điều tra đầu thú ngày 17/10/2020. (bút lục số 105, 173) Toàn bộ diễn biến bắt, giữ chị H tại quán nước và trên xe ô tô, cháu K và cháu T đã dùng điện thoại di động quay video ghi lại. Quá trình làm việc, Cơ quan điều tra thu giữ: 01 điện thoại di động Iphone XS Max màu trắng gắn sim liên lạc của cháu K; 01 điện thoại di động Iphone XS Max màu vàng gắn sim liên lạc của T; 01 điện thoại di động Samsung galaxy J7 màu trắng gắn sim liên lạc của N; 01 điện thoại di động Iphone 7 plus màu vàng gắn sim liên lạc của S; 01 điện thoại di động Iphone 6S màu vàng đồng của L; 01 điện thoại di động Nokia phím bấm, màu đen gắn sim liên lạc của T. Ngoài ra còn thu giữ của T, Th 01 xe ô tô Kia Sorento, BKS: 34A-348... (bút lục số 200-205) Tại Cáo trạng số: 138/CT- VKSUB ngày 27/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, truy tố các bị cáo Nguyễn Thị N, Nguyễn Thị S, Nguyễn Văn T, Đỗ Thị Th, Lê Văn T và Ngô Văn H về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo quy định tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa: Các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
* Bị hại chị Đinh Thị H vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai trong hồ sơ vụ án phù hợp với lời khai của các bị cáo và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo như bản cáo trạng; đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị N, Nguyễn Thị S, Nguyễn Văn T, Đỗ Thị Th, Lê Văn T và Ngô Văn H phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”; áp dụng khoản 1 Điều 157;
điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 BLHS; xử phạt Nguyễn Thị N từ 12 đến 15 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng; xử phạt các bị cáo Nguyễn Thị S, Nguyễn Văn T và Đỗ Thị Th từ 09 -12 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng; các bị cáo Lê Văn T và Ngô Văn H từ 06 đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng. Giao các bị cáo cho chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
- Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình bị bắt giữ, do chỉ bị xây xát không đáng kể, chị H từ chối giám định thương tích và không yêu cầu bồi thường thiệt hại, nên không xem xét.
- Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Đối với xe ô tô BKS 34A- 348…đứng tên chủ sở hữu là Đỗ Thị Th. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, nên không đề cập.
Đối với số điện thoại bị thu giữ, các bị cáo dùng gọi điện rủ nhau đến nhà N và liên lạc với nhau khi đi theo dõi chị H với anh Đ, không liên quan đến hành vi phạm tội bắt, giữ người trái pháp luật, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; với lời khai của bị hại, lời khai của những người làm chứng, với biên bản khám nghiệm hiện trường và sơ đồ hiện trường do Công an thành phố U lập ngày 02/9/2020, phù hợp với vật chứng vụ án cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã đủ cơ sở để HĐXX kết luận: Khoảng 15 giờ, ngày 01/9/2020 tại sân quán nước của gia đình ông Nguyễn Đình S, thuộc tổ 4, khu 2, phường T, thành phố U, tỉnh Q, Nguyễn Thị N đã cùng với Nguyễn Thị S, Nguyễn Văn T, Đỗ Thị Th, Lê Văn T và Ngô Văn H có hành vi bắt giữ chị Đinh Thị H trái pháp luật rồi đưa chị H về nhà N ở tổ 8, khu 2, phường V, thành phố U, tỉnh Q để tra hỏi. Khoảng 16 giờ 15 phút cùng ngày, N cùng đồng phạm bị Công an phường V kiểm tra, phát hiện. Hành vi của các bị cáo Nguyễn Thị N, Nguyễn Thị S, Nguyễn Văn T, Đỗ Thị Th, Lê Văn T và Ngô Văn H đủ yếu tố cấu thành tội “Bắt giữ người trái pháp luật” theo quy định tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về hình phạt:
[3.1] Về hình phạt chính: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền tự do của con người, quyền tự do dân chủ của công dân, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tinh thần của bị hại, làm mất ổn định trật tự xã hội tại địa phương. Các bị cáo là những người đã trưởng thành, nhận thức đầy đủ về hành vi mình thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì những lý do mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống các bị cáo đã phạm tội, nên cần phải xét xử nghiêm minh, nhằm răn đe, giáo dục, cải tạo các bị cáo.
- Xét vai trò và nhân thân các bị cáo thì thấy: Đây là vụ án mang tính đồng phạm giản đơn, không có sự tổ chức, phân công vai trò chặt chẽ. Tuy nhiên, bị cáo N là người khởi xướng, rủ rê các bị cáo còn lại đánh, bắt chị H từ quán nước, ép chị H lên xe ô tô đưa về nhà N nên N giữ vai trò cao nhất trong vụ án, xếp sau N là S, Th và T, Th đã cùng với N, S tham gia đánh và ép chị H lên xe ô tô, còn T là người điều khiển xe ô tô để chở chị H cùng đồng phạm về nhà N, sau cùng là T1 và H chỉ tham gia với vai trò thứ yếu trong vụ án. Tất cả các bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự, xuất thân từ thành phần con em công nhân lao động, nhận thức pháp luật có phần hạn chế, HĐXX sẽ xem xét cân nhắc để có mức hình phạt phù hợp với các bị cáo.
- Tình tiết tăng nặng: không có.
- Tình tiết giảm nhẹ: Cả sáu bị cáo đều lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, và có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Sau khi phạm tội bị cáo S và T1 đã ra đầu thú, T1 và H đã có thời gian phục vụ trong quân đội, bị hại có đơn xin giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, nên các bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Qua xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như vai trò, tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của từng bị cáo, HĐXX thấy rằng do muốn bắt quả tang chồng bị cáo N có quan hệ Nam – Nữ với bị hại, nên N đã nhờ các em, các cháu trong gia đình để đi theo dõi anh Đ, mục đích của bị cáo N cũng chỉ muốn gặp mặt để nói chuyện và yêu cầu chị H chấm dứt mối quan hệ bất chính với chồng bị cáo. Việc làm của N cũng chỉ nhằm bảo vệ hạnh phúc gia đình, mà bị cáo không biết hành vi đó đã vi phạm pháp luật. HĐXX nhận thấy các bị cáo là người kém hiểu biết pháp luật, nay đã thật sự ăn năn, hối cải và có địa chỉ cư trú rõ ràng, nên không cần bắt các bị cáo phải cách ly khỏi xã hội mà cho các bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương, nơi các bị cáo cư trú cũng đảm bảo tính răn đe, giáo dục, để các bị cáo thấy được tính khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.
[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 157 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 đến 05 năm. Hội đồng xét xử xét thấy, các bị cáo đều không có chức vụ, nên không áp dụng.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Đinh Thị H không có yêu cầu gì, nên không đề cập.
[5] Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Đã được giải quyết trong giai đoạn điều tra, nên không xem xét.
[6]. Về tình tiết khác trong vụ án: Đối với chị Nguyễn Thị L, cháu Nguyễn Khắc K, cháu Nguyễn Thu T có đi cùng các bị cáo nhưng không tham gia vào việc bắt, giữ chị H nên không đề cập xử lý.
[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố
Các bị cáo Nguyễn Thị N, Nguyễn Thị S, Nguyễn Văn T, Đỗ Thị Th, Lê Văn T và Ngô Văn H phạm tội: “Bắt, giữ người trái pháp luật”.
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 157; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Thị N 12 (mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (24/12/2020). Giao bị cáo Nguyệt cho Ủy ban nhân dân phường V, thành phố U, tỉnh Q giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo N có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường V, thành phố U trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Xử phạt: Nguyễn Thị S 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (24/12/2020). Giao bị cáo Sáu cho Ủy ban nhân dân phường Q, thành phố U, tỉnh Q giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo S có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường Q, thành phố U trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Xử phạt: Nguyễn Văn T 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (24/12/2020).
Xử phạt: Đỗ Thị Th 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 24/12/2020).
Xử phạt: Lê Văn T1 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 24/12/2020).
Giao các bị cáo Nguyễn Văn T, Đỗ Thị Th và Lê Văn T cho Ủy ban nhân dân phường P, thị xã K, tỉnh H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo T, Th và T1 có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường P, thị xã K, tỉnh H trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.
Xử phạt: Ngô Văn H 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (24/12/2020). Giao bị cáo Hưng cho Ủy ban nhân dân phường D, thị xã K, tỉnh H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo H có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường D, thị xã K trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
2. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Nguyễn Thị N, Nguyễn Thị S, Nguyễn Văn T, Đỗ Thị Th, Lê Văn T và Ngô Văn H, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, các bị cáo, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 142/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 về tội bắt, giữ người trái pháp luật
Số hiệu: | 142/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về