Bản án 142/2020/HS-ST ngày 04/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H D, TỈNH H D

BẢN ÁN 142/2020/HS-ST NGÀY 04/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố HD, tỉnh HD mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 153/2020/HSST ngày 14/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 135/2020/QĐXXST-HS ngày 22/10/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh T, sinh năm: 1986; ĐKHKTT và chỗ ở: số 53 phố Lý Công Uẩn, phường Lê Thanh Nghị, thành phố HD, tỉnh HD; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Đình T - sinh năm: 1954 và bà: Nguyễn Thị H- sinh năm: 1956; vợ: chị Phạm Thị Bé H - sinh năm: 1988; bị cáo có 01 con - sinh năm: 2016. Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 14/QĐ-XPHC ngày 24/12/2007 của Công an phường Bình Hàn, thành phố HD, tỉnh HD xử phạt vi phạm hành chính đối với T về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy, số tiền phạt 200.000 đồng, nộp phạt ngày 24/12/2007. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 11/QĐ-XPVPHC ngày 13/01/2017 của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh HD xử phạt hành chính đối với T về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, số tiền phạt 1.500.000 đồng, nộp phạt ngày 24/4/2017. Tiền sự: không. Tiền án: Bản án số 112/2013/HSST ngày 02/8/2013 của Tòa án nhân dân thành phố HD, tỉnh HD xử phạt bị cáo 25 tháng tù về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo nộp án phí ngày 02/8/2013, chấp hành xong án phạt tù ngày 11/7/2015. Bản án số 30/2017/HSST ngày 07/8/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh xử phạt bị cáo 36 tháng tù về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày phạm tội 24/3/2017, chấp hành xong án phạt tù ngày 24/12/2019. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/7/2020, chuyển tạm giam từ ngày 23/7/2020 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh HD. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

1. Anh Lê Đăng Đ, sinh năm: 1978.

Địa chỉ: khu Phú Lương, phường Nam Đồng, thành phố HD, tỉnh HD.

Vắng mặt tại phiên tòa.

1. Anh Nguyễn Việt H, sinh năm: 1985.

Địa chỉ: khu 19, phường Ngọc Châu, thành phố HD, tỉnh HD. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20h30’ngày 22/7/2020, tại khu vực đầu đường Mai Hắc Đế giao với đường Điện Biên Phủ, phường Bình Hàn, thành phố HD, tỉnh HD, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố HD bắt quả tang Nguyễn Minh T đang cất giấu trong túi quần phía trước bên phải T đang mặc 02 gói nilon màu trắng, kích thước (2x2)cm, (1,5x1,5)cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng. T khai nhận là ma túy đá mục đích để sử dụng trước sự chứng kiến của anh Nguyễn Việt H ở khu 19, phường Ngọc Châu, thành phố HD, tỉnh HD và anh Lê Đăng Đ ở khu Phú Lương, phường Nam Đồng, thành phố HD, tỉnh HD.

Quá trình điều tra đã làm rõ: Nguyễn Minh T là người sử dụng chất ma túy (loại ma túy tổng hợp dạng đá). Khoảng 19h00’ngày 22/7/2020, Tú đi bộ ra khu vực đường tàu Điện Biên Phủ, phường Bình Hàn, thành phố HD, tỉnh HD mua được 02 gói ma túy đá với số tiền 500.000 đồng của một người đàn ông (không biết tên tuổi, địa chỉ) rồi cho vào túi quần phía trước bên phải đi tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 20h30’cùng ngày, khi Tú đi đến khu vực đầu đường Mai Hắc Đế giao với đường Điện Biên Phủ, phường Bình Hàn, thành phố HD, tỉnh HD thì bị Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy- Công an thành phố HD trong khi làm nhiệm vụ kiểm tra. Thu giữ trong túi quần bên phải 02 gói nilon màu trắng, kích thước (2x2)cm, (1,5x1,5)cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng có sự chứng kiến của anh Nguyễn Việt H và anh Lê Đăng Đ.

Tại Kết luận giám định số: 334/KLGĐ - PC09 ngày 25 tháng 7 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh HD kết luận: “Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Nguyễn Minh T, gửi đến giám định tổng khối lượng là: 0,534 gam, là ma túy, loại Methamphetamine”.

Methamphetamine nằm trong Danh mục II, STT: 323; Nghị định  73/2018/NĐ - CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ”.

Về vật chứng: Đối với 0,422 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong số 334/KLGĐ - PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh HD được quản lý tại kho vật chứng của Công an thành phố HD và chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố HDchờ xử lý theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận giám định nêu trên.

Tại Cáo trạng số: 146/CT-VKSTPHD ngày 14 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt: áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Từ 05 năm 06 tháng đến 05 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 22/7/2020. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng. Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu, tiêu hủy 0,422 gam Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định được đựng trong 01(một) phong bì niêm phong số 334/KLGĐ-PC09 được dán kín của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh HD (có đặc điểm theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố HD và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố HD ngày 16/10/2020). Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu điều tra khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20h30’ngày 22 tháng 7 năm 2020, tại khu vực đầu đường Mai Hắc Đế giao với đường Điện Biên Phủ, phường Bình Hàn, thành phố HD, tỉnh HD, Nguyễn Minh T đang có hành vi cất giấu trái phép 0,534 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố HD trong khi làm nhiệm vụ kiểm tra phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm tàng trữ, có tác hại lớn đến sức khỏe con người và là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác trong xã hội. Việc bị cáo cất giấu trái phép 0, 534 gam Methamphetamine để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng với mục đích thỏa mãn cơn nghiện, ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Mặc dù bị cáo cất giấu trái phép 0,534 gam Methamphetamine để sử dụng nhưng bản thân bị cáo vào ngày 02/8/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố HD, tỉnh HD xử phạt 25 tháng tù về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo nộp án phí ngày 02/8/2013, chấp hành xong án phạt tù ngày 11/7/2015. Đến ngày 24/3/2017, bị cáo lại phạm tội và ngày 07/8/2017, Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh xử phạt bị cáo 36 tháng tù về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt ngày 24/12/2019. Đến ngày 22/7/2020, bị cáo lại phạm tội do cố ý. Như vậy, bị cáo đã tái phạm lại phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết định khung hình phạt là “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD truy tố bị cáo T về tội danh trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền về việc quản lý các chất ma túy của Nhà nước; xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo nói riêng và phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Về nhân thân bị cáo thì thấy: ngày 24/12/2007, Công an phường Bình Hàn, thành phố HD, tỉnh HD xử phạt vi phạm hành chính đối với T về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy, số tiền phạt 200.000 đồng, nộp phạt ngày 24/12/2007. Ngày 13/01/2017, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh HD xử phạt hành chính đối với T về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, số tiền phạt 1.500.000 đồng, nộp phạt ngày 24/4/2017 nên đối với các hành vi này đều đã được xóa nhưng bị cáo vẫn có nhân thân xâu.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện sự nhân đạo của pháp luật. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy vẫn cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập và tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,422 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ thì bị tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Đối với người bán trái phép chất ma túy cho bị cáo T không làm rõ được nên không có căn cứ xử lý.

[8] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố HD, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ qua n tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số: 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.

1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Minh T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 22/7/2020.

2. Về xử lý vật chứng: tịch thu, tiêu hủy 0,422 gam Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định được đựng trong 01(một) phong bì niêm phong số 334/KLGĐ-PC09 được dán kín của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh HD (có đặc điểm theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố HD và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố HD ngày 16/10/2020).

3. Về án phí: buộc bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: bị cáo Nguyễn Minh T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 142/2020/HS-ST ngày 04/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:142/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:04/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về