Bản án 142/2019/HS-PT ngày 13/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 142/2019/HS-PT NGÀY 13/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13/8/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 89/2019/TLPT-HS ngày 27/6/2019 đối với bị cáo Nguyễn Thị Bích T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thị Bích T, sinh ngày 18/08/1995 tại tỉnh Quảng Nam; Nơi cư trú: Số 72, đường A, khối X, phường B, thị xã C, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Tổng đài viên taxi; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn G (s) và bà Phan Thị Đ (s); Tiền án, tiền sự: Không;  Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 15 phút, ngày 20/12/2018, chị Nguyễn Thị Hồng T2 điều khiển xe mô tô đến phòng trọ chở T đi ăn sáng từ kiệt 117 Đường E, Tp. Đà Nẵng đến quán ăn ở đường Ngô Thì Nhậm, Tp. Đà Nẵng thì T2 có để 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone XS, màu vàng đồng trong túi áo khoác bên phải của mình. Trên đoạn đường Tôn Đức Thắng, quận Liên Chiểu, T thò tay vào túi áo khoác của T2 thì phát hiện có chiếc điện thoại di động Iphone XS nên đã nảy sinh ý định trộm cắp. T lén lút dùng tay lấy chiếc máy điện thoại ra khỏi túi áo khoác của T2 rồi bật chế độ im lặng và giấu trong túi váy đang mặc trên người. Khi đến quán ăn thì T2 phát hiện mất máy điện thoại nên chở T quay về kiệt 117 đường E để tìm, T tắt nguồn điện thoại rồi đem cất giấu vào phòng mình. Chị T2 trình báo sự việc đến Công an phường Hòa Khánh Bắc. Ngày 25/12/2018, Công an phường Hòa Khánh Bắc mời T đến làm việc. Qua làm việc Nguyễn Thị Bích T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và giao nộp lại chiếc điện thoại đã chiếm đoạt. Tài sản chiếm đoạt có giá trị 27.000.000 đồng.

Tại Bản án sơ thẩm số 56/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, đã quyết định:

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Thị Bích T 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo bản án.

Ngày 24/5/2019, bị cáo Nguyễn Thị Bích T có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt. Ngày 08/08/2019 bị cáo bổ sung nội dung kháng cáo xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như án sơ thẩm đã kết luận là đúng; bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Bích T là hợp lệ. Về nội dung kháng cáo của bị cáo thì thấy rằng Bản án hình sự sơ thẩm số số 56/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 và xử phạt 09 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật; tuy nhiên xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 51, nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, hiện có công việc và nơi cư trú ổn định nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo hưởng án treo được cải tạo giáo dục tại địa phương và ấn định cho bị cáo một thời gian thử thách cũng thỏa đáng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa án án sơ thẩm.

 NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Bích T khai nhận: Khoảng 08 giờ 15 phút, ngày 20/12/2018 bị cáo đã có hành vi lén lút lấy trộm của chị Nguyễn Thị Hồng T2 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone XS, giá trị tài sản theo định giá là 27.000.000đ (hai mươi bảy triệu đồng). Vì vậy, Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2019/HS-ST ngày 22/5/2019 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu đã xét xử bị cáo Nguyễn Thị Bích T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Bích T, HĐXX nhận thấy: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, nên cần phải được xét xử thỏa đáng. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự như: khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và nhân thân của bị cáo như: hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha bị cáo là người có công với cách mạng, chưa có tiền án tiền sự và xử phạt bị cáo 09 tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên, xét giữa bị cáo và bị hại là bạn bè với nhau, hành vi của bị cáo là bột phát được thực hiện khi bị hại đang chở bị cáo cùng đi ăn với nhau chứ bị cáo không có ý định hay chuẩn bị gì trước; sau khi phạm tội vào ngày 20/12/2018 ngày 25/12/2018 khi công an mời làm việc bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và giao nộp lại chiếc điện thoại. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân tốt từ trước đến nay chưa có tiền án tiền sự, đây là lần đầu bị cáo phạm tội; hiện bị cáo có công việc và nơi cư trú ổn định, là con duy nhất trong gia đình nên thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội mà áp dụng chế định án treo cho bị cáo cải tạo giáo dục tại địa phương và ấn định cho bị cáo một thời gian thử thách cũng đảm bảo tác dụng răn đe bị cáo, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam. Do vậy, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.

[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

 Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/. Căn cứ vào Điểm b Khoản 1 Điều 355 và điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Bích T, sửa một phần bản án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Nguyễn Thị Bích T 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm ngày 13/08/2019.

Giao bị cáo về cho Ủy ban nhân dân phường B, thị xã C, tỉnh Quảng Nam giám sát giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách của án treo nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ của người chấp hành án treo theo quy định của Luật thi hành án hình sự từ 2 lần trở lên, thì Tòa án có thể buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2/. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị Bích T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3/. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 142/2019/HS-PT ngày 13/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:142/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về