Bản án 142/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 142/2018/HS-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 143/2018/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 146/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Trần Hoài B (tên gọi khác: Xù), sinh ngày 26/4/1995 tại Cà Mau. Nơi cư trú: số 070, khóm 6, phường 3, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Hoài X, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1962; Anh chị em ruột 03 người, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 2008; Tiền án: Không;Tiền sự: Ngày 21/6/2018, bị Ủy ban nhân dân phường 3, thành phố B, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, thời gian 03 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, chưa chấp hành xong; Nhân thân: Ngày 19/01/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử phúc thẩm tuyên phạt 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, đã được xóa án tích; Bị tạm giữ ngày 30/8/2018; tạm giam ngày 31/8/2018 đến nay. “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Hoài B là người nghiện ma túy, khoảng 21 giờ 50 phút ngày 29/8/2018, do có nhu cầu sử dụng ma túy B dùng xe mô tô hiệu Honda, loại Airblade, biển kiểm soát 69C1-264.68, từ nhà đến khu vực cầu số 4, hẻm không số, khóm 6, phường 7, thành phố B gặp bà Chín (Tạ Kim H) mua 01 bịch ma túy và 01 ống thủy tinh để sử dụng ma túy với giá 600.000 đồng. Sau khi mua ma túy, B để bịch ma túy vào trong dây đeo của đồng hồ trên tay trái, ống thủy tinh để trong túi quần. Lúc 23 giờ ngày 29/8/2018, B điều khiển xe đến trước nhà nghỉ số 66, khóm 3, phường 2, thành phố B, định gọi điện cho bạn cùng sử dụng ma túy thì bị Công an tỉnh Bạc Liêu bắt quả tang, thu giữ 01 bịch nylon kích thước 1,7cm x 2,3cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng nghi là ma túy và các tang vật có liên quan.

- Tại Phiếu xét nghiệm miễn dịch của Bệnh viện Đa khoa Bạc Liêu, ngày 30/8/2018: xác định Trần Hoài B, dương tính với chất Methamphetamine.

- Tại kết luận giám định số 555/KL-PC09, ngày 30/8/2018, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng trong gói ni lon gửi giám định được niêm phong có đánh số 01, có dấu tròn màu đỏ của Công an phường 2, thành phố Bạc Liêu, có chữ ký ghi tên Điều tra viên Phạm Hữu Nghiệp, chữ ký ghi tên Đại úy Lâm Văn Phúc, chữ ký ghi tên người chứng kiến Giang Trung T và chữ ký ghi tên Trần Hoài B, là ma túy khối lượng 0,3500 gam, loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 136/CT-VKSTPBL ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo Trần Hoài B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tuyên bố bị cáo Trần Hoài B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sựxử phạt bị cáo Trần Hoài B từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

+ Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo Trần Hoài B phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

+ Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu và tiêu hủy đối với số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng 0,2788 gam và 01 ống thủy tinh hình phểu.

- Bị cáo Trần Hoài B đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố đối với bị cáo. Sau khi nghe Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Bạc Liêu trình bày luận tội, bị cáo không có ý kiến tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Hoài B không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Hoài B tại phiên tòa hoàn toàn thống nhất và phù hợp với lời khai của chính bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 29/8/2018, đồng thời phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, làm rõ tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Trần Hoài B là đối tượng nghiện ma túy. Vào lúc 23 giờ, ngày 29/8/2018, tại trước nhà nghỉ 66, khóm 3, phường 2, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu, Công an tỉnh Bạc Liêu kết hợp cùng Công an phường 2, thành phố B bắt quả tang Trần Hoài B có hành vi tàng trữ trái phép 0,3500 gam ma túy, loại Methamphetamine, nhằm mục đích để sử dụng.

Trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo Trần Hoài B có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bản thân bị cáo nhận thức được ma túy là chất gây nghiện nên Nhà nước độc quyền quản lý; ai có hành vi mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy đều bị pháp luật xử lý nghiêm nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để thực hiện tội phạm. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trưc tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản ly của Nhà nước về chất ma túy mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, gây nguy hiểm cho xã hội, làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác như: Trộm cắp tài sản, Cướp tài sản, Cướp giật tài sản,... nên cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, biết tuân thủ pháp luật, sống có ích, đồng thời còn mang tính chất răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Hoài B đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy đối với số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng 0,2788 gam và 01 ống thủy tinh hình phểu.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Airblade, biển kiểm soát 69C1-264.68, là của chị Tống Thị Kim T cho Trần Hoài B thuê, không biết việc B sử dụng xe để mua ma túy, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu. Đối với các tài sản khác đã thu giữ xét thấy không liên quan đến vụ án, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ

[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Hoài B, xét thấy đang trong thời gian chấp hành quyết định xử phạt hành chính áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, do đó không đề cập xử lý.

Đối với Tạ Kim H (Bà Chín) quá trình điều tra không có mặt ở địa phương, chưa làm việc được, giao Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân thành phố B là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ.

[9] Bị cáo co quyền kháng cáo bản án theo quy đinh của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bi cao Trần Hoài B (Xù) pham tôi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, xử phạt bị cáo Trần Hoài B 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam là ngày 30/8/2018.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu hủy đối với số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng 0,2788 gam và 01 ống thủy tinh hình phểu.

(Các vật chứng nêu trên hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Bạc Liêu theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/11/2018).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo Trần Hoài B (Xù) phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền khang cao: Án xử công khai, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 142/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:142/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về