TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TĨNH GIA, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 142/2017/HSST NGÀY 15/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 11 năm 2017, tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã Hải Bình, huyện Tĩnh Gia xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 140/2017/HSST ngày 27 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo:
Lê Văn T - Sinh năm 1986; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn N, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Trình độ văn hoá: 3/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Lê Văn K và bà Phạm Thị T; có vợ là Nguyễn Thị Y (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2012.
Tiền án, tiền sự: Không
Nhân thân: Tháng 9/2012 bị đưa đi cai nghiện bắt buộc 02 năm, đến tháng 9/2014 trở về địa phương.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/6/2017 đến ngày 28/6/2017 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. Có mặt tại phiên tòa.
NHẬN THẤY
Bị cáo bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tĩnh Gia truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 19h ngày 25/6/2017, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Lê Văn T đi xe buýt vào xã M, huyện T tìm mua ma túy, khi đến khu vực cầu H, xã M, T mua của một người phụ nữ không quen biết một gói ma túy với giá 300.000 đồng và T thuê xe ôm đi về nhà. Đến 20h cùng ngày T đang đi bộ trên QL1A thuộc địa phận thôn N, xã H, huyện T thì bị Đội phòng chống ma túy Bộ đội biên phòng phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần bên phải của T 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột dạng cục vụn màu trắng ngà.
Tại kết luận giám định số 1566/MT-PC54 ngày 26/6/2017 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột dạng cục vụn màu trắng ngà của phong bì niêm phong gửi giám định T lượng là 0,413 gam, có Heroin.
Tại bản cáo trạng số 143/CT-VKS ngày 26/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tĩnh Gia truy tố Lê Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tĩnh Gia duy trì công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung cáo trạng và đề nghị áp dụng khoản 1 điều 194; điểm p khoản 1 điều 46; điều 33 BLHS; Điều 76 BLTTHS và đề nghị xử phạt Lê Văn T từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.
Bị cáo nhận tội, không có ý kiến tranh luận, chỉ xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
XÉT THẤY
Tại phiên toà hôm nay Lê Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đối chiếu với các lời khai tại cơ quan điều tra của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở để kết luận:
Khoảng 19h ngày 25/6/2017, do bị nghiện ma túy nên Lê Văn T đi xe buýt vào xã M, huyện T tìm mua ma túy để xử dụng, khi đến khu vực cầu H, xã M, T mua của một người phụ nữ một gói ma túy với giá 300.000 đồng. Đến 20h cùng ngày T đang đi bộ trên QL1A thuộc địa phận thôn N, xã H, huyện T thì bị Đội phòng chống ma túy Bộ đội biên phòng phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần bên phải của T 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột dạng cục vụn màu trắng ngà.
Lê Văn T khai nhận: Khi đi đến khu vực cầu H xã M gặp và mua của một người phụ nữ không biết họ tên, quán chỉ 01 gói heroin với giá 300.000đ và cất dấu mục đích để sử dụng thì bị Công an bắt giữ.
Qua giám định có tổng T lượng là 0,413g có heroin, hàm lượng heroin là 61,59%. T lượng heroin mà Lê Văn T tàng trữ là 0,2543667gam (0,413 x 61,59%).
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của Lê Văn T đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý", theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự, như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là đúng pháp luật.
Hành vi tàng trữ phép chất ma tuý của Lê Văn T đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, hành vi đó là rất nghiêm T, mang tính nguy hiểm cao cho xã hội. Bị cáo phải biết rằng ma tuý là hiểm hoạ, là nguyên nhân gây ra sự suy thoái về đạo đức và cũng là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, ảnh hưởng lớn đến trật tự trị an xã hội.
Bản thân bị cáo: Vào tháng 9/2012 bị đưa đi cai nghiện bắt buộc 02 năm, đến tháng 9/2014 trở về địa phương nhưng vẫn tái nghiện ma túy.
Căn cứ vào hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm khắc để giáo dục T và nhằm cảnh tỉnh răn đe phòng ngừa những kẻ có ý đồ phạm tội như bị cáo. Nên cần xử cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục là cần thiết.
Tuy nhiên tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Nên cần áp dụng điểm p khoản 1 điều 46 của BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.
Bị cáo phạm tội ma túy nhưng bản thân khó khăn về kinh tế nên không phạt tiền. Trong vụ án này T khai mua gói heroin của một người phụ nữ, do T không biết rõ nhân thân, địa chỉ của người này, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ.
Về vật chứng: Số Heroin (vật chứng còn lại sau giám định) thu được của T là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".
Áp dụng: Khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T: 27 (Hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/6/2017.
Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu huỷ số Heroin còn lại sau giám định có trong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. Hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án huyện Tĩnh Gia theo phiếu nhập kho số NK2018/13 ngày 23/10/2017.
Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 BLTTHS; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2017 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc Lê Văn T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 142/2017/HSST ngày 15/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 142/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tĩnh Gia (cũ) - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về