Bản án 14/2023/HS-ST về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PRÔNG, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 14/2023/HS-ST NGÀY 13/04/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 13 tháng 4 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 52/2022/HSST ngày 30 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2023/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2023/HSST-QĐ ngày 21 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Thái D, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1988, tại huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.

Trú tại: Số 37 L, phường B, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Thái H, sinh năm 1963 và bà Phạm Thị L (đã chết); Vợ bị cáo là Nguyễn Thị Quỳnh G, sinh năm 1987, bị cáo có 01 con sinh năm 2022; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Ông Nguyễn Tuấn H, sinh năm 1982 (đã chết); Trú tại: Thôn H, xã D, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Người đại diện hợp pháp cho người bị hại Nguyễn Tuấn H đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà PH Thị P (vợ ông Hiệp), sinh năm 1987; Trú tại: Thôn H, xã D, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Người đại diện theo ủy quyền của bà PH Thị P là ông Nguyễn Hữu H, sinh năm 1972; Trú tại: Thôn H, xã D, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Bà P và ông H đều có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Công ty TNHH Một Thành Viên Chăn nuôi N. Đại diện theo pháp luật ông Võ Minh Q – Giám đốc; Địa chỉ: Số 15 C, phường D, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Công ty TNHH thức ăn gia súc Đ. Đại diện theo pháp luật ông Trần T – Tổng Giám đốc; Địa chỉ: Lô P.KCN C, xã C, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

3. Công ty TNHH giao nhận vận chuyển quốc tế H. Đại diện theo pháp luật ông Bùi Minh T – Tổng Giám đốc; Địa chỉ: KCN Cảng và Hậu cần cảng Chu Lai H, xã H, huyện Núi Thành, tỉnh Quãng Nam. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

4. Doanh nghiệp Tư nhân vận tải Phước H. Đại diện theo pháp luật bà Lê Thị T – Giám đốc; Địa chỉ: Số 113B PH, phường Đ, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt không có lý do.

5. Doanh nghiệp Tư nhân Q A. Đại diện theo pháp luật bà Vương Thị L- Chủ doanh nghiệp; Địa chỉ: Số 76 Đ, tổ 02, phường L, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt không có lý do.

6. Ban quản lý các dự án đầu tư xây dựng tỉnh Gia Lai. Đại diện theo pháp luật ông Phạm Xuân Đ – Giám đốc. Đại diện theo ủy quyền ông Phan Hoài Chương, sinh năm 1985; Địa chỉ: Số 71 Hai Bà Trưng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Đỗ Hoàng Mi, sinh năm 1953; trú tại: Làng G, xã P, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1992; trú tại: Làng G, xã P, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thái D (có giấy phép lái xe hạng FC) được Doanh nghiệp tư nhân Q A thuê điều khiển xe đầu kéo, biển kiểm soát 81C-069.xx kéo theo sơ mi rơ mooc, biển kiểm soát 81R-002.xx có trọng tải 29.100kg chở 50 bao cám thức ăn cho bò có tổng trọng lượng 30.000kg để giao cho Công ty TNHH MTV chăn nuôi N có địa chỉ tại xã Ia Púch, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Vào khoảng 08 giờ ngày 27/01/2022, D điều khiển xe đầu kéo kéo theo sơ mi rơ mooc chở cám đi từ thành phố Pleiku đến xã Ia Púch, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Đến khoảng 10 giờ 13 phút cùng ngày, D điều khiển xe đi đến đoạn Km9+800m, tỉnh lộ 663 thuộc làng G, xã P, huyện Chư Prông, đây là đoạn đường xuống dốc, tốc độ xe do D điều khiển lúc này khoảng 70km/h, D đạp phanh giảm tốc độ xuống còn 65km/h thì xe đi đến đoạn đường có vòng cua về bên phải, D điều khiển xe đánh lái sang bên phải để đi vào khúc cua lên cầu D (Cầu Ngầm) thì toàn bộ sơ mi rơ mooc chở 30 tấn cám bị lật sang trái, cùng lúc này có xe ô tô biển kiểm soát 81A-148.xx do anh Nguyễn Tuấn H điều khiển đi ngược chiều vừa đến thì bị sơ mi rơ mooc chở cám đè lên. Hậu quả làm anh Nguyễn Tuấn H chết tại chỗ, xe ô tô biển kiểm soát 81A-148.xx bị hư hỏng hoàn toàn, xe đầu kéo biển kiểm soát 81C-069.xx kéo theo sơ mi rơ mooc, biển kiểm soát 81R-002.xx cùng hàng hóa bị hư hỏng nhẹ, cầu Drang bị hư hỏng một phần lan can và tường hộ lan.

Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: Hin trường xảy ra tai nạn tại km 9+800m, đường tỉnh lộ 663 thuộc địa phận làng G, xã P, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai, đường chạy cong từ hướng Đông-Bắc qua cầu Ngầm rồi cong về hướng Tây- Nam, hướng Đông-Bắc đi UBND xã Bàu Cạn và hướng Tây-Nam đi thị trấn Chư Prông. Đường không có chướng ngại vật, tầm nhìn không bị che khuất. Mặt đường rải nhựa rộng 6,3m. Đường có vạch kẻ đường M̀u vàng đứt nét phân chia làn đường, và vạch kẻ đường màu vàng liền nét phân chia làn đường trên cầu D (cầu Ngầm), tại hành lang bên phải theo hướng UBND xã Bàu Cạn đi thị trấn Chư Prông có biển báo chỗ ngoặt nguy hiểm vòng bên phải. Cầu D (cầu Ngầm) có kích thước (22x7)m và bề rộng xe chạy là 6m. Hai bên lan can cầu được thiết kế gồm 17 trụ bê tông hình vuông kích thước (1x0,2)m mỗi trụ cách nhau từ 0,1-1m. Hai bên mép đường của đầu cầu D có xây dựng lan can sắt dài 30m cao cách mặt đất 0,8m và chạy cong theo mép đường. Tường hộ lan cầu bị hư hỏng 16m. Lấy cột điện số: 474TG.HRO/119/137 nằm tại hành lang bên trái theo hướng UBND xã Bàu Cạn đi thị trấn Chư Prông làm cột mốc. Chọn mép đường bên phải theo hướng UBND xã Bàu Cạn đi thị trấn Chư Prông làm mép đường chuẩn để đo các vết ghi nhận tại hiện trường. Vị trí số (1) là vết bào mòn kim loại đứt nét trên lan can sắt kích thước (8,57x0,58)m. Chiều hướng từ hướng Đông đến hướng Tây tâm điểm bắt đầu cách mép đường làm chuẩn là 6,4m, cách cột mốc là 24m và cao cách mặt đất là 0,54m và cách biển báo là 167m. Tâm điểm kết thúc cách mép đường làm chuẩn là 6,5m; Vị trí số (2) là cụm vết cày liền nét kích thước (11,8x1,15x0,01)m. Chiều hướng từ hướng Đông và hơi chếch về hướng Tây-Bắc, tâm điểm bắt đầu cách mép đường làm chuẩn là 5,5m và cách điểm bắt đầu số (1) là 4,68m. Tâm điểm kết thúc cách mép đường làm chuẩn là 4m; Vị trí số (3) là cụm vết cày liền nét kích thước (8,6x2,1x0,005)m. Chiều hướng từ Đông-Nam đến hướng Tây-Bắc, tâm điểm bắt đầu cách mép đường làm chuẩn là 3,65m, cách tâm điểm kết thúc số (2) là 0,35m và tâm điểm kết thúc cách mép đường làm chuẩn là 2,70m và nằm tại vị trí của rơ moóc (mặt sau cùng), biển kiểm soát: 81-002.80; Vị trí số (4) là vết hằn đứt quãng M̀u đen (nghi của lốp xe ô tô) kích thước (11x2,5)m. Chiều hướng từ hướng Đông đến hướng Tây, tâm điểm bắt đầu cách mép đường làm chuẩn là 1,05m, cách tâm điểm bắt đầu số (2) là 7,8m. Tâm điểm kết thúc cách mép đường làm chuẩn là 1,2m; Vị trí số (5) là đầu kéo, biển kiểm soát: 81C-069.xx kéo theo rơ moóc, biển kiểm soát: 81-002.80, Rơ moóc, biển kiểm soát: 81-002.80 nằm đổ nghiêng bên trái đu hơi chếch về hướng Tây-Nam đuôi hơi chếch về hướng Đông-Bắc phía bên trong lòng t rơ moóc có đổ và rơi vãi chất bột M̀au trắng, vàng (nghi cám), tâm trục bánh xe sau cùng (trục 3) bên trái cách mép đường làm chuẩn là 1,76m và tâm trục trước bánh xe (trục 1) phía bên trái cách mép đường làm chuẩn là 2,08m, tại thời điểm khám nghiệm hiện trường lốp trong phía bên trái trục lốp thứ 1 của rơ moóc không còn hơi, mặt trước của khung thành sơ mi rơ moóc cách mép đường làm chuẩn là 3,8m. Đầu kéo biển kiểm soát: 81C-069.xx hơi nằm đổ nghiêng bên phải đầu quay về hướng Đông-Nam, đuôi quay về hướng Tây-Bắc, tâm trục sau cùng phía bên trái cách mép đường làm chuẩn là 4,7m và cao cách mặt đất là 1,6m. Tâm trục bánh xe sau cùng phía bên phải cách mép đường làm chuẩn là 5,5m. Tâm trục trước bánh xe phía bên trái cách mép đường làm chuẩn là 8,8m; Vị trí số (6) là xe ô tô, biển kiểm soát: 81A-148.xx nằm trong lòng tH Rơ moóc, biển kiểm soát: 81-002.80 đầu quay về hướng Đông, đuôi quay về hướng Tây. Cảng trước cách mặt sau của tH rơ moóc là 5,4m. Tâm trục trước bánh xe phía bên trái cách mép đường làm chuẩn là 3m, tâm trục bánh xe sau cùng phía bên trái cách mép đường làm chuẩn là 3m. Tại vị trí ghế ngồi trước phía bên trái phát hiện 01(một) tử thi là nam giới đang trong tư thế nằm hơi ngửa ra sau, mặt nghiêng qua bên phải, tử thi mặc áo tay dài M̀u đỏ, quần tây dài M̀u xanh, tay trái thả tự nhiên theo chiều dài cơ thể, tay phải hơi co và để ngang với bả vai phải. Tâm đỉnh đầu tử thi cách cánh cửa trước bên trái là 0,9m và cách cánh cửa trước bên phải là 0,9m. Tiến hành mở rộng hiện trường không phát hiện dấu vết đồ vật, tài liệu gì.

Kiểm tra dấu vết trên phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông xác định: Đối với xe ô tô, biển kiểm soát 81A-148.xx: Hệ thống tổng thành bị hư hỏng hoàn toàn (sơ mi rơ mooc tải lật đè lên) như: động cơ không hoạt động, hệ thống lái hư hỏng, khung xe bị cong vênh, thân vỏ hư hỏng (co cụm, bép dính), hệ thống treo, hệ thống nhiên liệu, hệ thống điện bị hư hỏng, kính chắn gió bị vỡ. Đối với xe đầu kéo biển kiểm soát 81C- 069.xx: Xe ô tô tại thời điểm giám định không hoạt động được vì đa số các chi tiết, hệ thống tổng thành bị hư hỏng như: động cơ không hoạt động, thân vỏ hư hỏng, bình đựng nhiên liệu bị thủng, móp, hệ thống điện bị hư hỏng, két làm mát bị cong vênh, móp, bầu pô bị móp; Chụp mâm xe (trục1) bên phải bị vỡ, nứt; Bình hơi bên phải rời khỏi vị trí định vị; Mâm xoay chất kéo bị vênh (tại vị trí lỗ chất kéo bị vênh, giãn); Chắn bị gãy rời khỏi vị trí định vị ban đầu; Cụm đèn báo rõ phía sau bị vỡ rời khỏi vị trí định vị. Hệ thống lái: đầy đủ các cụm, các chi tiết. Hệ thống treo: đầy đủ các cụm, các chi tiết. Hệ thống phanh: Tháo các bánh xe kiểm tra. Có đầy đủ chi tiết, đủ hệ thống các má phanh và tang trống đủ số lượng, các chi tiết liên kết chắc chắn, không thấy sự bất thường về kĩ thuật. Số lượng lốp, cỡ lốp, trục. Đối với sơ mi rơ mooc, biển kiểm soát 81R-002.xx: Đa số các chi tiết, hệ thống tổng thành bị hư hỏng như: tH hàng bị cong vênh, móp méo, gãy; 01 lốp (trục 1) bên trái phía sau không còn áp suất (có lỗ thủng, chất kéo) sơ mi rơ mooc tải bị gãy. Hệ thống phanh: Tháo các bánh xe kiểm tra, có đầy đủ chi tiết, đủ hệ thống các má phanh và tang trống đủ số lượng, các chi tiết liên kết chắc chắn, không thấy sự bất thường về kĩ thuật. Số lượng lốp, cỡ lốp, trục: Trục 1: 4 bộ, trục 2: 4 bộ, trục 3:4 bộ.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 09 ngày 10/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự kết luận xe ô tô, biển kiểm soát 81A-148.xx tại thời điểm ngày 27/01/2022 có giá trị 236.000.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 26 ngày 08/7/2022 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự huyện Chư Prông kết luận một số hạng mục an toàn giao thông gồm lan can cầu 10.538.140 đồng và tường hộ lan 31.090.295 đồng. Tổng cộng: 41.673.435 đồng.

Kết quả đo nồng độ cồn, test M túy ngày 27/01/2022 tại Công an huyện Chư Prông đối với Nguyễn Thái D. Kết quả: nồng độ cồn 0 mg/l, âm tính với các loại M túy trên que test.

Tại Kết luận giám định pháp y tử thi số 88 ngày 25/2/2022 đối với Nguyễn Tuấn H, kết luận nguyên nhân chết: chấn thương ngực kín.

Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Thái D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thái D không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định pháp y, kết luận định giá nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 04/CT-VKS-CPR ngày 26 tháng 12 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Prông đã truy tố bị cáo Nguyễn Thái D ra trước Toà án nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai để xét xử về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, d khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thái D phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng điểm a, d khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thái D từ 14 tháng đến 16 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; các điều 584, 585, 586, 589, 591, 601 Bộ luật dân sự 2015.

Áp dụng Điều 3, Điều 8, Điều 12 Nghị Quyết số 02/2022/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ngày 06/9/2022 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại là bà PH Thị P về việc cấp dưỡng cũng như mức cấp dưỡng cho 02 cháu Nguyễn Phương A, sinh ngày 29/10/2021 và Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 02/4/2013 là con chung của bà PH Thị P và ông Nguyễn Tuấn H (đã chết). Bị cáo Nguyễn Thái D có nghĩa vụ cấp dưỡng cho 02 cháu Nguyễn Phương A, sinh ngày 29/10/2021 và Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 02/4/2013 mỗi cháu một tháng là 2.000.000 đồng, kể từ ngày 13/4/2023 cho đến khi các cháu thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận buộc bà Vương Thị L - chủ doanh nghiệp tư nhân Q A bồi thường cho người đại diện hợp pháp của người bị hại là bà PH Thị P các khoản sau: Chi phí Mi táng số tiền theo hóa đơn là 66.660.000 đồng; giá trị chiếc xe BKS 81A-148.xx theo định giá là 236.000.000 đồng; tổn thất về tinh thần từ 50 đến 60 tháng lương cơ sở.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận buộc bà Vương Thị L-chủ doanh nghiệp tư nhân Q A bồi thường cho Ban quản lý các dự án đầu tư xây dựng tỉnh Gia Lai số tiền 41.673.435 đồng.

Về án phí: Buộc bị cáo và bà Vương Thị L phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Thái D nhận thấy hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chư Prông, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Prông trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Nguyễn Thái D đã khai nhận toàn bộ hành vi M̀ bị cáo đã thực hiện, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của những người liên quan. Do đó, có đủ căn cứ để kết luận: Vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 27/01/2022, bị cáo điều khiển xe đầu kéo biển kiểm soát 81C-06933, kéo theo sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 81R-002.xx chở cám đi từ thành phố Pleiku về hướng thị trấn Chư Prông. Khi đến đoạn Km9+800m tỉnh lộ 663 thuộc khu vực làng G, xã P, huyện Chư Prông, đây là đoạn đường xuống dốc, chân dốc có vòng cua về bên phải và đến cầu qua suối do bị cáo điều khiển xe chở quá tải đi quá tốc độ cho phép nên khi xe đi đến cầu đã lật về bên trái đè lên xe ô tô biển kiểm soát 81A-148.xx do anh Nguyễn Tuấn H điều khiển đi ngược chiều, làm anh Hiệp tử vong tại chỗ, xe ô tô biển kiểm soát 81A-148.xx bị hư hỏng hoàn toàn thiệt hại là 236.000.000 đồng; lan can cầu D và tường hộ lan thiệt hại là 41.673.435 đồng. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Thái D đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, d khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi của bị cáo điều khiển xe ô tô đầu kéo kéo theo sơ mi rơ moóc chở quá trọng tải, chạy quá tốc độ quy định, không tuân thủ biển báo nguy hiểm, không đảm bảo an toàn khi điều khiển xe xuống dốc, qua đường vòng cua, qua cầu đã vi phạm khoản 11 Điều 8, khoản 1 Điều 28 Luật Giao thông đường bộ, khoản 1, 3, 4 Điều 5, Điều 7 và Thông tư số 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ Giao thông vận tải quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông, hậu quả gây tai nạn làm chết 01 người, thiệt hại tài sản là 277.673.435 đồng. Bị cáo đã T tiếp xâm phạm các quy định về quản lý an toàn giao thông của nhà nước, gây thiệt hại về tính Ṃng, tài sản của người khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do đó cần xử phạt bị cáo hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên Hội đồng xét xử cũng nhận thấy bị cáo có nhân thân tốt, từ trước đến nay chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội bị cáo cùng chủ sở hữu xe đã tự nguyện bồi thường cho gia đình người bị hại một phần để khắc phục hậu quả; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự Hội đồng xét xử sẽ xem xét, áp dụng để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự đối với bị cáo khi lượng hình.

[4] Về hình phạt bổ sung: Hiện nay gia đình bị cáo khó khăn, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định không phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án bị cáo đã bồi thường số tiền 10.000.000 đồng, doanh nghiệp tư nhân Q A-bà Vương Thị L đã bồi thường cho gia đình bị hại 100.000.000 đồng. Trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa đại diện hợp pháp cũng như người đại diện theo ủy quyền của người bị hại ông Nguyễn Hữu H, bà PH Thị P và bị cáo Nguyễn Thái D thống nhất thỏa thuận về việc cấp dưỡng cũng như mức cấp dưỡng cho 02 cháu Nguyễn Phương A, sinh ngày 29/10/2021 và Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 02/4/2013 là con chung của bà PH Thị P và ông Nguyễn Tuấn H (đã chết). Bị cáo Nguyễn Thái D có nghĩa vụ cấp dưỡng cho 02 cháu Nguyễn Phương A, sinh ngày 29/10/2021 và Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 02/4/2013 mỗi cháu một tháng là 2.000.000 đồng, kể từ ngày 13/4/2023 cho cho đến khi các cháu thành niên. Hội đồng xét xử xét thấy cần ghi nhận sự thỏa thuận trên.

Tại phiên tòa đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu bà Vương Thị L-Chủ doanh nghiệp Q A phải bồi thường các khoản sau: Chi phí Mi tang 66.660.000 đồng; tổn thất tinh thần 145.000.000 đồng; bồi thường tài sản bị thiệt hại chiếc xe BKS 81A-148.xx theo định giá là 236.000.000 đồng.

Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của Ban quản lý các dự án đầu tư xây dựng tỉnh Gia Lai yêu cầu bà Vương Thị L-Chủ doanh nghiệp Q A phải bồi thường số tiền 41.673.435 đồng.

Hội đồng xét xử nhận thấy theo quy định tại Điều 601 Bộ luật dân sự và Điều 12 Nghị Quyết số 02/2022/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ngày 06/9/2022 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Như vậy việc doanh nghiệp tư nhân Q A-bà Vương Thị L chủ doanh nghiệp đã thuê bị cáo điều khiển xe đầu kéo, biển kiểm soát 81C-069.xx kéo theo sơ mi rơ mooc, biển kiểm soát 81R-002.xx chở 50 bao cám thức ăn cho bò đi từ thành phố Pleiku đến Công ty TNHH MTV chăn nuôi N tại xã Ia Púch, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai và tại phiên tòa bị cáo trình bày hiện nay gia đình rất khó khăn không có khả năng bồi thường tất cả các yêu cầu bồi thường trên nên đề nghị xem xét trách nhiệm bồi thường đối với chủ doanh nghiệp tư nhân Q A-bà Vương Thị L. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của đại diện hợp pháp của người bị hại cũng như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là có căn cứ nên cần buộc bà Vương Thị L-chủ doanh nghiệp tư nhân Q A phải bồi thường cho người đại diện hợp pháp của người bị hại là bà PH Thị P các khoản sau: Chi phí Mi táng số tiền theo hóa đơn là 66.660.000 đồng; giá trị chiếc xe BKS 81A-148.xx theo định giá là 236.000.000 đồng; đối với phần bồi thường tổn thất về tinh thần Hội đồng xét xử nhận thấy trong vụ án này lỗi của bị cáo là lỗi vô ý và khả năng, điều kiện bồi bồi của bị cáo còn khó khăn nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận số tiền là 89.400.000 đồng (tương đương 60 tháng lương cơ sở). Tổng cộng là 392.060.000 đồng. Bị cáo và bà Vương Thị L-chủ doanh nghiệp tư nhân Q A đã bồi thường số tiền 110.000.000 đồng, như vậy buộc bà Vương Thị L-chủ doanh nghiệp tư nhân Q A còn phải bồi thường cho người đại diện hợp pháp của người bị hại là bà PH Thị P Bố tiền còn lại là 282.060.000 đồng.

Buộc bà Vương Thị L-chủ doanh nghiệp tư nhân Q A phải bồi thường cho Ban quản lý các dự án đầu tư xây dựng tỉnh Gia Lai số tiền 41.673.435 đồng. Bà Vương Thị L-chủ doanh nghiệp tư nhân Q A có tranh chấp về bồi thường đối với bị cáo thì được giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.

Đối với Công ty TNHH Một Thành Viên Chăn nuôi N, Công ty TNHH thức ăn gia súc Đ, Công ty TNHH giao nhận vận chuyển quốc tế H và Doanh nghiệp Tư nhân vận tải Phước H. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa các công ty đã có sự thỏa thuận bồi thường cũng như trong đơn xin xét xử vắng mặt không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng: Đối với 01 xe đầu kéo, biển kiểm soát 81C-069.xx và 01 (một) rơ mooc, biển kiểm soát 81R-002.xx, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là doanh nghiệp tư nhân Q A là đúng quy định.

Đối với 01 (một) xe ô tô BKS: 81A-148.xx, nhãn hiệu HUYNDAI, màu Bạc, số loại SANTAFE, số máy: D4EA-3183090, số khung: KMHSD81VP3U-557031, bị hư hỏng, biến dạng hoàn toàn, không còn nguyên hình dạng ban đầu. Hội đồng xét xử xét thấy cần giao trả lại cho người đại diện hợp pháp của người bị hại là bà PH Thị P là đúng quy định pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thái D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí cấp dưỡng và bà Vương Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thái D phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

1.Về hình phạt:

Áp dụng điểm a, d khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thái D 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; các điều 584, 585, 586, 589, 591 Bộ luật dân sự 2015.

Áp dụng Điều 3, Điều 8, Điều 12 của Nghị Quyết số 02/2022/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ngày 06/9/2022 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Buộc bị cáo Nguyễn Thái D có nghĩa vụ cấp dưỡng cho 02 cháu Nguyễn Phương A, sinh ngày 29/10/2021 và Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 02/4/2013 mỗi cháu một tháng là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), kể từ ngày 13/4/2023 cho đến khi các cháu thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Buộc bà Vương Thị L-chủ doanh nghiệp tư nhân Q A bồi thường cho người đại diện hợp pháp của người bị hại là bà PH Thị P số tiền 282.060.000 đồng (Hai trăm tám mươi hai triệu không trăm sáu mươi ngàn đồng).

Buộc bà Vương Thị L-chủ doanh nghiệp tư nhân Q A bồi thường cho Ban quản lý các dự án đầu tư xây dựng tỉnh Gia Lai số tiền 41.673.435 đồng (Bốn mươi mốt triệu sáu trăm bảy mươi ba ngàn bốn trăm ba mươi lăm đồng).

Kể từ ngày bản án quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo quy định khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại 01 (một) xe ô tô BKS: 81A-148.xx, nhãn hiệu HUYNDAI, M̀u Bạc, số loại SANTAFE, số máy: D4EA-3183090, số khung: KMHSD81VP3U-557031, bị hư hỏng, biến dạng hoàn toàn, không còn nguyên hình dạng ban đầu cho người đại diện hợp pháp của người bị hại là bà PH Thị P.

(Vật chứng nêu trên có đặc điểm cụ thể theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/01/2023 giữa Công an huyện Chư Prông và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chư Prông).

4.Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, 1 Điều 23, Điều 24, Điều 26, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Nguyễn Thái D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí cấp dưỡng.

Buộc bà Vương Thị L-chủ doanh nghiệp tư nhân Q A phải nộp 16.186.671 đồng (Mười sáu triệu một trăm tám mươi sáu ngàn sáu trăm bảy mươi mốt đồng) án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hình sự để sung quỹ Nhà nước.

5.Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình lên Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đối với những người vắng mặt có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Trường hợp quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2023/HS-ST về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:14/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Prông - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:13/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về