Bản án 14/2021/KDTM-ST ngày 02/04/2021 về tranh chấp hợp đồng dịch vụ

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 14/2021/KDTM-ST NGÀY 02/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ 

Trong các ngày 31 tháng 3 đến ngày 02 tháng 4 năm 2021 tại Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 71/2020/TLST-KDTM ngày 09 tháng 12 năm 2020 về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 144/2021/QĐST-DS ngày 01 tháng 03 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Tiêu chuẩn Đ Địa chỉ: phường An B, quận N, thành phố Cần Thơ.

Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Văn M. Chức vụ: Giám đốc. Có mặt.

2. Bị đơn: Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập Khẩu Q1.

Địa chỉ: ấp M, xã An H, huyện Châu T, tỉnh Bến Tre.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Thị Mỹ D. Chức vụ: Giám đốc. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, nguyên đơn trình bày và yêu cầu:

Ngày 28/8/2017, giữa Công ty TNHH Thương mại dịch vụ tư vấn chất lượng Q2 nay là Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Tiêu chuẩn Đ và Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu Q1 có ký kết hợp đồng số 038-17/HĐ/QCS-QGP, về việc tư vấn tiêu chuẩn GlobalGAP cho vùng canh tác dừa xiêm tại ấp Thới Trị, xã Châu Hòa, huyện Giồm Trôm, tỉnh Bến Tre, với tổng chi phí là 265.000.000 đồng. Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu Q1 đã tạm ứng cho Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Tiêu chuẩn Đ đợt 1 với số tiền 106.000.000 đồng vào ngày 22/5/2018.

Hiện tại, Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Tiêu chuẩn Đ đã hoàn thành việc tư vấn và Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu Q1 đã nhận Giấy chứng nhận tiêu chuẩn GlobalGAP do tổ chức chứng nhận SGS Việt Nam cấp ngày 09/10/2018 và Hóa đơn tài chính do Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Tiêu chuẩn Đ cung cấp ngày 16/10/2018.

Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu Q1 không chấp hành nghĩa vụ thanh toán đầy đủ số tiền còn lại cho Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Tiêu chuẩn Đ với số tiền là 159.000.000 đồng. Công ty đã nhiều lần liên hệ đề nghị thanh toán bằng điện thoại, email, gửi công văn, nhưng Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu Q1 vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo như Hợp đồng dịch tư vấn đã ký kết.

Nay Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Tiêu chuẩn Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều buộc Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu Q1 thanh toán số tiền 159.000.000 đồng còn nợ lại và yêu cầu được tính lãi suất từ thời điểm đã nhận được hóa đơn tài chính do Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Tiêu chuẩn Đ phát hành ngày 16/10/2018 đến thời điểm nộp hồ sơ khởi kiện tại tòa là tháng 6/2020, theo mức lãi suất của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam là 6.5%/năm, tương ứng số tiền 16.306.333 đồng và tiếp tục tính lãi suất đến ngày xét xử sơ thẩm.

- Bị đơn Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu Q1 vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng nên không ghi nhận được ý kiến.

Tại phiên Tòa:

Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn ông Nguyễn Văn M trình bày: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án nhân dận quận Ninh Kiều buộc bị đơn Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu Q1 thanh toán số tiền 159.000.000 đồng còn nợ theo Hợp đồng dịch tư vấn số 038-17/HĐ/QCS-GT các bên đã ký kết. Đối với phần lãi suất, yêu cầu được tính theo mức lãi suất cho vay của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam với mức 6.5%/năm, tính từ ngày 16/10/2018 đến thời điểm xét xử hôm nay là 25.464.291 đồng và yêu cầu được tiếp tục tính lãi với mức 6.5%/năm đến khi bị đơn thanh toán xong nợ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật.;

- Về sự vắng mặt của bị đơn: Bị đơn Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập Khẩu Q1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đưa vụ kiện ra xét xử là đúng quy định.

- Về nội dung giải quyết vụ án: Căn cứ theo hợp đồng số 038-17/HĐ/QCS- QGP, về việc tư vấn tiêu chuẩn GlobalGAP cho vùng canh tác dừa xiêm tại ấp Thới Trị, xã Châu Hòa, huyện Giồm Trôm, tỉnh Bến Tre được ký kết giữa nguyên đơn và bị đơn với giá 265.000.000 đồng. Nguyên đơn đã hoàn thành nghĩa vụ trong hợp đồng, bị đơn đã nhận Giấy chứng nhận tiêu chuẩn GlobalGAP do tổ chức chứng nhận SGS Việt Nam cấp ngày 09/10/2018 nhưng chỉ thanh toán số tiền 106.000.000 đồng, hiện còn nợ lại 159.000.000 đồng. Qua kiểm tra sao kê tài khoản Ngân hàng mà các bên thỏa thuận sử dụng làm tài khoản thanh toán thì bị đơn chỉ chuyển khoản cho nguyên đơn 01 lần vào ngày 22/05/2018 với số tiền 106.000.000 đồng. Do vậy, việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn tiếp tục thanh toán số tiền còn nợ 159.000.000 đồng và lãi suất tính từ ngày xuất hóa đơn giá trị gia tăng đến khi xét xử sơ thẩm là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn Công ty TNHH Thương mại dịch vụ tư vấn chất lượng Q2 nay là Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Tiêu chuẩn Đ (sau đây gọi tắt là Công ty Đ) khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập Khẩu Q1 (sau đây gọi tắt là Công ty Q1) thanh toán công nợ cùng lãi suất theo Hợp đồng số 038-17/HĐ/QCS-QGP, về việc tư vấn tiêu chuẩn GlobalGAP cho vùng canh tác dừa xiêm tại ấp Thới Trị, xã Châu Hòa, huyện Giồm Trôm, tỉnh Bến Tre. Đây được xác định là tranh chấp về Hợp đồng dịch vụ được quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự.

Theo thỏa thuận của các bên, tại Điều 5 của Hợp đồng dịch vụ tư vấn số 038- 17/HĐ/QCS-QGP có quy định: “….. Nếu vẫn không đạt được sự thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp và bất đồng qua các biện pháp hòa giải thì một trong hai bên có thể đệ đơn lên Tòa án có thẩm quyền tại TP. Cần Thơ để giải quyết…..”. Như vậy, căn cứ theo nội dung thỏa thuận trong hợp đồng, các bên lựa chọn Tòa án có thẩm quyền nơi có trụ sở của nguyên đơn là nơi giải quyết tranh chấp phát sinh. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn Công ty Q1, theo xác nhận của Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Bến Tre đến nay vẫn còn đăng ký hoạt động tại địa chỉ ấp M, xã An H, huyện Châu T, tỉnh Bến Tre. Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều đã gửi các văn bản tố tụng qua đường bưu điện đến địa chỉ Công ty, địa chỉ liên hệ của người đại diện theo pháp luật của Công ty Q1 cũng như ủy thác cho Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử. Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã nhiều lần liên hệ đến địa chỉ của Công ty nhưng Công ty đóng cửa, không có người đại diện để nhận các văn bản tố tụng nên đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định.

Như vậy, bị đơn Công ty Q1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để công khai chứng cứ, hòa giải cũng như xét xử nhưng vắng mặt. Căn cứ Điều 207, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định.

[3] Về nội dung vụ án:

Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện: Ngày 28/8/2017, giữa Công ty TNHH Thương mại dịch vụ tư vấn chất lượng QCS nay là Công ty Đ và Công ty Q1 có ký kết hợp đồng dịch vụ tư vấn số 038-17/HĐ/QCS-QGP, về việc tư vấn tiêu chuẩn GlobalGAP cho vùng canh tác dừa xiêm tại ấp Thới Trị, xã Châu Hòa, huyện Giồm Trôm, tỉnh Bến Tre, với tổng phí dịch vụ là 265.000.000 đồng. Theo đó, Công ty Q1 sẽ thanh toán cho Công ty Đ thành 03 đợt: đợt 1 thanh toán 30% giá trị hợp đồng tương đương 79.500.000 đồng ngay sau khi hợp đồng được ký kết và bắt đầu triển khai công việc; đợt 02 thanh toán 40% giá trị Hợp đồng tương đương 106.000.000 đồng sau khi biên soạn tài liệu và hoàn tất quá trình đánh giá nội bộ; đợt 3 thanh toán số tiền còn lại của hợp đồng, tương đương 79.500.000 đồng, ngay sau khi tổ chức chứng nhận đến đánh giá chứng nhận. Về phương thức thanh toán, tại mục 3.3 của hợp đồng thỏa thuận bên A tức Công ty Q1 sẽ thanh toán phí dịch vụ cho bên B tức Công ty Đ bằng phương thức chuyển khoản vào tài khoản của bên B theo tài khoản số 0111000275051 tại Ngân hàng Vietcombank, chi nhánh Cần Thơ.

Hồ sơ thể hiện, Công ty Đ đã hoàn thành việc tư vấn và Công ty Q1 đã nhận được Giấy chứng nhận tiêu chuẩn GlobalGAP do tổ chức chứng nhận SGS Việt Nam cấp ngày 09/10/2018 cùng với Hóa đơn tài chính do Công ty Đ phát hành ngày 16/10/2018. Qua kiểm tra, đối chiếu sao kê tài khoản ngân hàng số 0111000275051 của Công ty Đ mà các bên lựa chọn làm tài khoản thanh toán thì Công ty Q1 chỉ chuyển khoản thanh toán cho nguyên đơn 01 lần vào ngày 22/05/2018 với số tiền 106.000.000 đồng kể từ khi hai bên ký kết Hợp đồng tư vấn số 038-17/HĐ/QCS- QGP và không thanh toán thêm bất kỳ khoản tiền nào. Như vậy, có căn cứ xác định, Công ty Q1 hiện còn nợ lại Công ty Đ số tiền 159.000.000 đồng.

Quá trình Tòa án thụ lý vụ kiện, đã nhiều lần triệu tập các bên tạo điều kiện để các bên hòa giải, đối chiếu công nợ cũng như đưa ra phương hướng thỏa thuận giải quyết vụ kiện nhưng bị đơn Công ty Q1 vẫn vắng mặt, cho thấy sự không tôn trọng pháp luật và cố tình không thực hiện nghĩa vụ thanh toán công nợ cho nguyên đơn. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi cho nguyên đơn, cần buộc Công ty Q1 có trách nhiệm thanh toán số tiền còn nợ lại là 159.000.000 đồng cho Công ty Đ.

Xét yêu cầu về lãi suất của nguyên đơn: Tại mục 3.2 của hợp đồng tư vấn thỏa thuận về tiến độ thanh toán thì việc thanh toán sẽ chia làm 03 đợt và đợt 3 sẽ thanh toán số tiền còn lại của hợp đồng, tương đương 79.500.000 đồng, ngay sau khi tổ chức chứng nhận đến đánh giá chứng nhận. Căn cứ theo thỏa thuận trên thì bị đơn phải thanh toán toàn bộ số tiền còn nợ lại của hợp đồng vào ngày 09/10/2018, vì hồ sơ thể hiện Công ty Q1 đã nhận được Giấy chứng nhận tiêu chuẩn GlobalGAP do tổ chức chứng nhận SGS Việt Nam cấp ngày 09/10/2018. Như vậy, kể từ sau ngày 09/10/2018 thì giữa các bên đã phát sinh nợ quá hạn do Công ty Q1 vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Tuy nhiên, theo đơn khởi kiện nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn trả số tiền còn nợ kèm theo lãi suất tương ứng với lãi suất cho vay của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam với mức 6.5%/năm tính từ ngày 16/10/2018 là ngày mà nguyên đơn xuất hóa đơn tài chính cho bị đơn. Đây là ý chí tự nguyện của nguyên đơn, không vi phạm điều cấm của pháp luật và mức lãi suất mà nguyên đơn yêu cầu áp dụng là có lợi cho bị đơn nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Như vậy số tiền lãi bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn tạm tính từ ngày 16/10/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 02/4/2021) là: 159.000.000 đồng X 6.5%/năm X 29 tháng 17 ngày = 25.464.291 đồng.

[4] Về án phí sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên được nhận lại tiền tạm ứng án phí và bị đơn phải chịu tiền án phí theo quy định pháp luật.

[5] Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 30, Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39, Điều 207, 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án,

Tuyên xử : Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Tiêu chuẩn Đ đối với bị đơn Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu Q1.

- Buộc Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu Q1 có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Tiêu chuẩn Đ tổng số tiền 184.464.291 đồng. Trong đó số tiền còn nợ theo Hợp đồng tư vấn số 038-17/HĐ/QCS-QGP là 159.000.000 đồng, tiền lãi phát sinh tính từ ngày 16/10/2018 đến 02/4/2021 là 25.464.291 đồng.

- Trường hợp Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu Q1 chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho nguyên đơn thì còn phải tiếp tục chịu lãi suất với mức 6.5%/năm tương ứng với số tiền và thời gian chậm thanh toán.

- Về án phí: Bị đơn phải chịu 9.223.000 đồng tiền án phí. Nguyên đơn được nhận lại số tiền 4.383.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 002933 ngày 13/8/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ.

- Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

923
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2021/KDTM-ST ngày 02/04/2021 về tranh chấp hợp đồng dịch vụ

Số hiệu:14/2021/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 02/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về