Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 30/07/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN - TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 14/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/07/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 30 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn- tỉnh Hòa Bình. Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 116/2021/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2021 về tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2021/QĐXX-ST ngày 15 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Ch, sinh năm 1989. Địa chỉ: xóm Rảy, xã Quyết Thắng, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt theo đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Bùi Đức L, sinh năm 1989. Địa chỉ: xóm Rảy, xã Quyết Thắng, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Bùi Thị Ch trình bày:

Về tình cảm: Chị và anh Bùi Đức L kết hôn năm 2013 trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc và đăng ký kết hôn tại UBND xã Phú Lương (nay là xã Quyết Thắng), huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Sau đó, tổ chức kết hôn theo phong tục tập quán địa phương.

Thời gian đầu chung sống, hai vợ chồng sống hòa thuận, yêu thương nhau, đến đầu năm 2020 thì hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không còn yêu thương, tin tưởng lẫn nhau. Mặc dù đã được hai bên gia đình khuyên bảo động viên nhưng tình trạng không thay đổi khiến mâu thuẫn vợ chồng rất trầm trọng, tình cảm vợ chồng không có, đời sống chung không thể kéo dài. Vợ chồng chị đã ly thân từ giữa năm 2020 cho đến nay. Cho đến thời điểm này, chị Ch xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị được ly hôn với anh Bùi Đức L.

Về con chung: Chị Ch và anh L có 01 con chung là cháu Bùi Thế L, sinh ngày 04/11/2014. Kể từ khi ly thân đến nay, anh L, chị Ch và bố mẹ anh L thay nhau trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lực. Vợ chồng ly hôn chị Ch đề nghị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và chưa yêu cầu anh L thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết; công nợ chung: Không có Ngoài ra chị Ch không có yêu cầu gì thêm.

Tại bản tự khai, biên bản hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn anh Bùi Đức L trình bày:

Về tình cảm: Anh và chị Bùi Thị Ch kết hôn năm 2013 trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc và đăng ký kết hôn tại UBND xã Phú Lương (nay là xã Quyết Thắng), huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình và tổ chức kết hôn theo phong tục tập quán địa phương.

Thời gian đầu chung sống, hai vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc, đến khoảng năm 2020 thì hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không còn quan tâm, tin tưởng lẫn nhau khiến mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng. Hai vợ chồng đã ly thân từ giữa năm 2020 cho đến nay. Cho đến thời điểm này anh L xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị Ch đề nghị ly hôn anh L đồng ý.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, anh L và chị Ch có 01 con chung là Bùi Thế L, sinh ngày 04/11/2014. Vợ chồng ly hôn anh L đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung và chưa yêu cầu chị Ch cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết; công nợ chung: Không có Ngoài ra anh L không có yêu cầu gì thêm.

* Tại biên bản xác minh ngày ngày 05/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn tại nơi cư trú của anh Bùi Đức L và chị Bùi Thị Ch có nội dung:

Anh Bùi Đức L và chị Bùi Thị Ch kết hôn năm 2013 trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn hợp pháp tại UBND xã Phú Lương (nay là xã Quyết Thắng), huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến đầu năm 2020 hai vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất hòa.

Nguyên nhân là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, xung đột, hai vợ chồng không còn tin tưởng lẫn nhau khiến mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng. Hai vợ chồng ly thân từ giữa năm 2020 cho đến nay, khả năng đoàn tụ là rất khó.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, anh L và chị Ch có 01 con chung là cháu Bùi Thế L, sinh ngày 04/11/2014. Kể từ khi ly thân đến nay, anh L, chị Ch và bố mẹ anh L thay nhau trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu Lực.

Về điều kiện nuôi con của anh L và chị Ch:

- Xét về yếu tố nhân phẩm, đạo đức: Anh L và chị Ch luôn giữ gìn tư cách, phẩm chất đạo đức có lối sống trong sạch, lành mạnh, luôn vui vẻ, cởi mở, hòa đồng.

- Xét đến yếu tố kinh tế để nuôi con: Anh L và chị Ch đều có công việc ổn định. Do đó, cả anh L và chị Ch đều đủ điều kiện kinh tế để nuôi con.

- Về thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng con: Thời gian làm việc của anh L và chị Ch không quá gò bó nên có đủ thời gian để dành cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về chỗ ở: Anh L và chị Ch có chỗ ở ổn định nên đủ điều kiện về chỗ ở để nuôi con.

*Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về tố tụng: Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình công nhận việc chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự của Thẩm phán, HĐXX và các đương sự từ khi thụ lý đến trước khi HĐXX nghị án.

Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Xác định mâu thuẫn giữa chị Ch và anh L đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị Ch và anh L đã tự nguyện ly hôn nên đề nghị HĐXX công nhận việc thuận tình ly hôn giữa hai đương sự.

- Về con chung: Đề nghị giao cháu Bùi Thế L cho chị Ch trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Ch chưa đề nghị anh L cấp dưỡng nuôi con và anh L không có quan điểm gì về vấn đề cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn nên đề nghị HĐXX chưa xem xét vấn đề cấp dưỡng nuôi con trong vụ án.

Về tài sản chung và công nợ chung: Đề nghị không đề cập giải quyết - Về án phí: Đề nghị áp dụng Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc chị Ch phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa HĐXX nhận ®Þnh:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án hôn nhân và gia đình “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Bị đơn là anh Bùi Đức L có hộ khẩu thường trú tại xóm Rảy, xã Quyết Thắng, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành thông báo và tống đạt đầy đủ các văn bản cho các bên đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 175 và khoản 1, 2 Điều 177 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định tại Điều 211 BLTTDS. Tiến hành hòa giải theo quy định tại Điều 205 BLTTDS để hai bên thỏa thuận với nhau việc giải quyết vụ án. Anh L và chị Ch đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa, đã được đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt chị Ch.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Ch và anh L được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống chị Ch và anh L không có hạnh phúc do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, hai vợ chồng không còn tin tưởng lẫn nhau, thường xuyên xảy ra cãi vã, xung đột vì thế cuộc sống gia đình trở nên bất hòa. Từ những nhận định trên thấy mâu thuẫn giữa anh L và chị Ch đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không thể đạt được. Chị Ch và anh L đã tự nguyện ly hôn nên HĐXX công nhận việc thuận tình ly hôn giữa hai anh chị là phù hợp Điều 51; Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống, anh L và chị Ch có 01 con chung là cháu Bùi Thế L. Hiện nay, bố mẹ anh L đang trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục. Vợ chồng ly hôn chị Ch đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lực và chưa yêu cầu anh L thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

Theo kết quả xác minh tại địa phương nơi cư trú của chị Ch và anh L: Chị Ch và anh L có chỗ ở ổn định, có công việc, thu nhập ổn định, có thời gian trông nom, chăm sóc, đủ điều kiện nuôi con. Tuy nhiên, cháu Lực còn nhỏ, rất cần sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng của người mẹ. Vì vậy, để đảm bảo quyền L và sự phát triển về mọi mặt của con chung cần chấp nhận yêu cầu của chị Ch, giao cháu Bùi Thế L cho chị Ch trực tiếp nuôi dưỡng.

[4] Vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Do chị Ch chưa đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn nên HĐXX không xem xét là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 luật Hôn nhân và gia đình. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi đương sự có yêu cầu.

[5] Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết; công nợ chung:

không có nên HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Ch phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời gian luật định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; Điều 55; Điều 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

1. Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Bùi Thị Ch và anh Bùi Đức L.

2. Về con chung, cấp dưỡng: Giao con chung là cháu Bùi Thế L, sinh ngày 04/11/2014 cho chị Bùi Thị Ch trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục kể từ tháng 8/2021 cho đến khi con chung 18 tuổi và có khả năng lao động hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Anh L chưa phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về án phí: Chị Bùi Thị Ch phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0004150 ngày 14/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn. Chị Bùi Thị Ch đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thì hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai. Bị đơn có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nguyên đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án, hoặc ngày niêm yết bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 30/07/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:14/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về