Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 14/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ LY HÔN

Trong ngày 20 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án Nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số 642/2020/TLST-HN ngày 23 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 885/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Tô Thùy Thảo Ng, sinh năm 1977 Địa chỉ: 65/53/3C T, phường C, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ

Bị đơn: Ông Lê Chí Th, sinh năm 1972 Địa chỉ: 80/40 P, phường A, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 06/10/2020 và bản tự khai nguyên đơn – bà Tô Thùy Thảo Ng trình bày:

Bà và ông Lê Chí Th tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2001, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường A, thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ (cũ) cấp giấy chứng nhận kết hôn. Thời gian đầu ông bà chung sống hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn do tính tình không phù hợp dẫn đến cuộc sống không được hạnh phúc. Đến năm 2015, bà dẫn các con về nhà cha mẹ ruột sinh sống cho đến nay. Do đó, bà yêu cầu được ly hôn với ông Th. Nhiều lần bà đề nghị ông Th đến Tòa án để giải quyết việc hôn nhân của ông bà nhưng ông Th kêu bà muốn làm gì thì làm, ông không đến Tòa án. Do đó, bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quá trình chung sống, bà và ông Th có 02 con chung tên Lê M (nam) sinh ngày 13/5/2002 và Lê Minh T (nữ) sinh ngày 23/02/2007. Từ khi ông bà sống ly thân thì 02 con sống với bà. Nhưng từ khoảng đầu năm 2020 thì cha và ông bà nội của các cháu đón các cháu về chăm sóc cho đến nay. Trong đơn kiện bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung chưa thành niên, không yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con. Nhưng hiện tại cháu T sinh sống cùng với cha và ông bà nội, ông Th và ông bà nội cũng có điều kiện kinh tế cũng như việc chăm sóc cháu được tốt, cháu T cũng có nguyện vọng được sống với cha và ông bà nội nên bà cũng đồng ý giao con chung chưa thành niên cho ông Th chăm sóc và giáo dục, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Bà và ông Th không có tài sản chung, nợ chung.

Bị đơn - ông Lê Chí Th đã được Tòa án triệu tập nhiều lần để giải quyết vụ kiện nhưng ông Th đều vắng mặt và cũng không có văn bản gửi Tòa án thể hiện ý kiến của ông đối với yêu cầu khởi kiện của bà Ng.

Do ông Th vắng mặt nên vụ kiện thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, vụ kiện được đưa ra xét xử.

Tại phiên tòa:

Bà Ng có đơn xin vắng mặt, ông Th vắng mặt không có lý do. Phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồ ng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục luật định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, bị đơn chưa chấp hành giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án.

- Về giải quyết vụ án: Bà Ng và ông Th chung sống có đăng ký kết hôn, có 02 con chung, không có tài sản chung, nợ chung. Quá trình chung sống có mẫu thuẫn nên bà Ng yêu cầu ly hôn và đồng ý giao con chung chưa thành niên cho ông Th nuôi dưỡng; không có tài sản chung, nợ chung. Ông Th không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà Ng. Bà Ng và ông Th đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay cùng với việc ông Th luôn vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ kiện. Từ đó cho thấy, mâu thuẫn trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Ng; giao con chung chưa thành niên cho ông Th trực tiếp nuôi dưỡng. Bà Ng trình bày không có nợ chung, tài sản chung nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bà Tô Thùy Thảo Ng và ông Lê Chí Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường A, thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ (cũ) cấp giấy chứng nhận kết hôn số 225, quyển số II/2001 ngày 20/11/2001 nên là hôn nhân hợp pháp. Bà Tô Thùy Thảo Ng khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Lê Chí Th nên xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp ly hôn”, tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Ninh Kiều theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông Lê Chí Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông Th.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Tô Thùy Thảo Ng:

Theo bà Tô Thùy Thảo Ng trình bày thì trong quá trình chung sống giữa bà và ông Lê Chí Th phát sinh mâu thuẫn do tính tình không phù hợp dẫn đến cuộc sống không được hạnh phúc. Đến năm 2015, bà dẫn các con về nhà cha mẹ ruột sinh sống cho đến nay. Ông Lê Chí Th đã được Tòa án nhiều lần triệu tập để giải quyết hôn nhân của ông bà nhưng đều vắng mặt và cũng không có văn bản thể hiện ý kiến của ông đối với yêu cầu khởi kiện của bà Ng. Thái độ của ông Th thể hiện ông không còn quan tâm, tìm cách để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hội đồng xét xử xét thấy, mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; vợ chồng có nghĩa vụ chung sống với nhau. Tuy nhiên, bà Ng và ông Th đã sống ly thân trong thời gian dài. Từ đó, cho thấy hôn nhân giữa bà Ng và ông Th mâu thuẫn đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của bà Ng là có cơ sở chấp nhận.

Về con chung: Bà Ng và ông Th có 02 con chung tên Lê M(nam) sinh ngày 13/5/2002 và Lê Minh T (nữ) sinh ngày 23/02/2007. Trong đơn kiện bà Ng yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung chưa thành niên nhưng trong quá trình giải quyết vụ kiện bà Ng xác định từ đầu năm 2020 hai con chung của bà về sống với ông Th nên bà cũng đồng ý để các con tiếp tục sống cùng ông Th. Hội đồng xét xử xét thấy, cháu M đã trưởng thành nên không xem xét; cháu T có nguyện vọng được tiếp tục sống với cha và anh trai cũng như ông bà nội. Bà Ng cũng xác định ông Th có điều kiện chăm sóc các con tốt hơn nên các con muốn sống với ông Th thì bà cũng tôn trọng ý kiến của con. Mặc dù trong quá trình giải quyết vụ kiện ông Th không có ý kiến gì nhưng để ổn định cuộc sống và đảm bảo sự phát triển mọi mặt của cháu T nên giao cháu T cho ông Th tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Bà Ng và ông Th đều không yêu cầu giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết một trong các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Việc thăm, chăm sóc và giáo dục con chung là quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con, không ai có quyền ngăn cản.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Ng xác định bà và ông Th không có tài sản chung, nợ chung. Đồng thời do giải quyết vụ kiện vắng mặt ông Th, không có ý kiến của ông Th về vấn đề này nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này phát sinh tranh chấp và có đơn kiện sẽ được xem xét giải quyết thành vụ kiện khác.

[3] Quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều về việc tuân theo pháp luật tố tụng và hướng giải quyết vụ án là phù hợp.

[4] Về án phí: Bà Ng phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39, Điều 146, Điều 147, khoản 2 Điều 227 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân Sự;

- Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên án:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - bà Tô Thùy Thảo Ng.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Tô Thùy Thảo Ng được ly hôn với ông Lê Chí Th.

- Về con chung: Giao con chung chưa thành niên tên Lê Minh T (nữ) sinh ngày 23/02/2007 cho ông Lê Chí Th trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.

Việc thăm, chăm sóc và giáo dục con chung là quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con, không ai có quyền ngăn cản.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét. Nếu sau này phát sinh tranh chấp và có đơn kiện sẽ được xem xét giải quyết thành vụ kiện khác.

2. Về án phí: Bà Tô Thùy Thảo Ng phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, cấn trừ vào 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí bà Ng đã nộp theo biên lai thu số 003209 ngày 23/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ thì bà Ng đã nộp đủ tiền án phí.

3. Bà Tô Thùy Thảo Ng và ông Lê Chí Th được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về ly hôn

Số hiệu:14/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về