TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 14/2020/HS-ST NGÀY 10/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 10 tháng 9 năm 2020, tại Nhà văn hóa Khóm 7, thị trấn D, huyện H, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2020/TLST- HS ngày 14/8/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2020/QĐXXST- QĐ ngày 26/8/2020, đối với các bị cáo:
Nguyễn Thanh T, (tên gọi khác: Tr), sinh ngày 03/9/1995 tại Quảng Trị; nơi cư trú: Khóm 7, thị trấn D, huyện H, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Thanh D, sinh năm 1967 và bà Lê Thị Tường A, sinh năm 1968; tiền án, tiền sự: Không có.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/01/2020 đến ngày 12/6/2020 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”, có mặt tại phiên tòa.
Hồ Ngọc H, sinh ngày 23/10/1997 tại Quảng Trị; nơi cư trú: Khóm 7, thị trấn D, huyện H, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 11/12; quốc tịch Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Hồ Ngọc Ch, sinh năm 1955 và bà Trần Thị T, sinh năm 1957; tiền án, tiền sự: Không có.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/01/2020 đến ngày 21/01/2020, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt tại phiên tòa.
Nguyễn Trọng H, sinh ngày 20/11/1993 tại Quảng Trị; nơi cư trú: Thôn 4, thị trấn D, huyện H, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 10/12; quốc tịch Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Th (đã chết) và bà Trần Thị B, sinh năm 1966; tiền án, tiền sự: Không có.
Nhân thân: Ngày 06/01/2017, bị Công an huyện H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép vũ khí thô sơ, với mức phạt 3.000.000 đồng, bị cáo nộp phạt xong ngày 13/01/2017.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/01/2020 đến ngày 12/6/2020 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”, có mặt tại phiên tòa.
Phạm Văn Ngh (Tên gọi khác: L), sinh ngày 19/8/1995 tại Quảng Trị; nơi cư trú: Thôn 4, thị trấn D, huyện H, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 10/12; quốc tịch Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Phạm Th (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1965; tiền án, tiền sự: Không có.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/01/2020 đến ngày 12/6/2020 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”, có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Anh Nguyễn V, sinh năm 1998; trú tại: Thôn 4, thị trấn D, huyện H, tỉnh Quảng Trị, có mặt.
- Anh Nguyễn Qu, sinh năm 1964; trú tại: Thôn 4, thị trấn D, huyện H, tỉnh Quảng Trị, có mặt.
- Anh Trần Thượng Nh, sinh năm 1967; trú tại: Khóm 7, thị trấn D, huyện H, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
Người làm chứng:
- Anh Nguyễn Quốc C, sinh năm 1998; trú tại: Thôn 4, thị trấn D, huyện H, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
- Anh Võ Thanh Đ, sinh năm 1993; trú tại: Thôn K, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị, có mặt.
- Anh Bùi Mạnh H, sinh năm 1987; trú tại: Thôn 3, thị trấn D, huyện H, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ ngày 16/01/2020, Hồ Ngọc H nhắn tin qua Facebook cho Nguyễn Thanh T là bạn, đang làm ở thành phố Đ với nội dung “Đài nói là Đ về rồi, có lấy thì về anh bỏ cho mà chơi”, sau khi nhận tin nhắn, T hiểu là Võ Thanh Đ ở thôn K, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị có bán ma túy vào mua về sử dụng nên gọi điện lại cho H trao đổi và thống nhất, cả hai sẽ gặp nhau tại ngã tư H, xã H, huyện H để cùng đi mua ma túy, H nghe T điện thoại nói vậy nên điều khiển xe mô tô về ngã tư H, đợi một lúc thì thấy T đến, H nói “Tau có 200.000đồng, mi có 100.000đồng không góp vô chơi cho vui”, T đồng ý và đưa cho H 100.000đồng. Vì máy điện thoại hết tiền nên H mượn điện thoại của T để gọi cho Đ mua ma túy. Sau khi trao đổi, Đ đồng ý bán 03 viên và cho thêm 01 viên tổng cộng là 04 viên, rồi hẹn gặp ở cổng làng K để lấy ma túy, H nói với T điều khiển xe đến đường tránh lũ đứng đợi ở cầu K, xã H còn H đi lấy ma túy. Sau khi mua ma túy của Đ xong, cả hai về nhà nghỉ Lifecom thuộc thôn 3, thị trấn D, huyện H, T vào thuê phòng số 6 để sử dụng ma túy, do trên đường đi rơi mất 01 viên nên còn lại 03 viên, cả hai làm dụng cụ và sử dụng hết 03 viên ma túy này.
Khoảng 17 giờ cùng ngày, H ra hành lang ngồi thì thấy Nguyễn V và Nguyễn Quốc C ở thôn 4, thị trấn D, huyện H, vào thuê phòng số 4 để mua bia về nhậu, vì là bạn bè quen biết nhau nên V mời H và T qua phòng số 4 chơi, uống bia, T và H trả phòng số 6 qua phòng số 4 ngồi uống bia với V và C. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, T gọi H ra ngoài hành lang nói “Lấy ít nữa về chơi”, H hiểu là đi mua tiếp ma túy, lúc này H hết tiền nên nói với T “Tau hết tiền”, sau đó T liên lạc trao đổi thì Đ đồng ý chuyển khoản 200.000đồng vào tài khoản của chị Hồ Thị T có số tài khoản 0041000254092 (tài khoản này do D sử dụng) để mua 03 viên ma túy, giao dịch xong, H vào muợn xe V chở T đi lấy ma túy, (V cho H mượn xe nhưng không biết để đi mua ma túy), khi đến cầu K, xã H thì T xuống xe, đến mép cầu phía bên phải lấy 01 gói giấy vệ sinh màu trắng theo sự chỉ dẫn của Đ và quay về nhà nghỉ Lifecom. Khi T và H về, vì thấy phòng số 5 đang mở cửa nhưng không có ai thuê nên vào và gọi V qua cùng sử dụng ma túy, cả ba người sử dụng hết 03 viên thì quay lại phòng số 4 uống bia, lúc này có Phạm Văn Ngh đến, uống bia một lúc Ngh điện thoại gọi thêm bạn Nguyễn Trọng H đến nhậu và nhờ C chở H đến, lúc này V uống say nên lên giường nằm ngủ.
Đến khoảng 21 giờ 40 phút cùng ngày, chỉ còn Ngh và H uống bia nên H nói: “Rủ lên nhậu mà không ai nhậu nữa thì kêu tôi lên làm chi” và định bỏ về thì T nói “Ngồi lại chơi xí đã”, nên H ngồi lại thì T nói “Ai có tiền góp chơi cho vui”, nghe T nói vậy mọi người đều hiểu là góp tiền mua ma túy về sử dụng, H nói “Tau hết tiền rồi”, Ngh nói “Tau có 200.000đồng”, T có hỏi V (lúc này đang nằm ngủ) có tiền không, thì V nói “Tau không có tiền” rồi ngủ tiếp. T nói với Ngh đưa đây để tau tính và lấy 200.000đồng rồi ra ngoài gọi điện cho Đ nói: Có 200.000đồng tiền mặt và chuyển khoản 200.000đồng, Đ đồng ý và T chuyển khoản cho Đ 200.000đồng vào tài khoản mang tên Hồ Thị T, nhận được tiền thì Đ điện thoại cho T nói “Về cầu K lấy”, giao dịch xong, T lấy xe của V (chìa khóa nằm ở xe, lúc này V ngủ nên không biết) chở H cùng đi, về đến cầu K, xã H thì gặp Đ đang ngồi trên xe mô tô, T đưa 200.000đồng thì Đ đưa cho H 01 gói nilon, rồi về nhà nghỉ Lifecom, trên đường về H mở ra đếm được 05 viên ma túy, H và T về đến nhà nghỉ vào phòng số 4 thì lúc này V ngủ dậy, rủ C đi ăn tối. Ngh và H ngồi trên giường chơi game qua điện thoại, H bỏ túi nilon có chứa 05 viên ma túy ở bàn và lấy chai nhựa làm dụng cụ để hút, T lấy một bật lửa gas và 01 viên ma túy ở bàn đem ra sử dụng, T sử dụng đầu tiên rồi lần lượt đến H, Ngh và H thì hết 01 viên ma túy, cùng lúc này Công an vào kiểm tra, T lấy gói ma túy còn lại 04 viên ở bàn chạy vào nhà vệ sinh ném vào bồn cầu để phi tang nhưng không kịp xả nước thì bị lực lượng Công an đến thu giữ và bắt quả tang, tạm giữ người cùng tang vật.
Sau khi bắt quả tang đã tiến hành xét nghiệm đối với Nguyễn Thanh T, Phạm Văn Ngh, Nguyễn Trọng H và Hồ Ngọc H, kết quả: Dương tính với chất ma túy Methamphetamine.
Tại Bản kết luận giám định số 123/KLGĐ ngày 20/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 04 viên nén màu hồng đã được niêm phong trong phong bì giấy ký hiệu MT1 gửi đến giám định có khối lượng 0,4043g là ma túy loại Methamphetamine (được quy định trong Danh mục II, STT: 323 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ).
Bản Cáo trạng số 19/CT-VKS-HL ngày 12/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh T, Phạm Văn Ngh, Nguyễn Trọng H và Hồ Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai nhận đã thực hiện hình vi như nội dung bản cáo trạng đã nêu ở trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt:
- Nguyễn Thanh T và Hồ Ngọc H, mỗi bị cáo từ 13 đến 15 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ vào thời gian tạm giữ, tạm giam.
- Phạm Văn Ngh và Nguyễn Trọng H, mỗi bị cáo từ 12 đến 13 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ vào thời gian tạm giữ, tạm giam.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu và tiêu hủy: 01 túi niêm phong có ký hiệu PS3A - 102859, bên ngoài có hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị và chữ ký của những người tham gia niêm phong, bên trong có chứa 0,2783g chất bột màu hồng là ma túy Methamphetamine, 01 túi nilong trong suốt, kín miệng và bao gói niên phong có ký hiệu MT1 sau giám định; 01 chai nhựa nhãn mác trà xanh không độ, có kích thước cao 20cm, đường kính đáy 06cm, đường kính miệng 03cm, trên thân chai có 01 lỗ thủng cách đáy chai 05cm; 01 bật lửa ga màu tím đã qua sử dụng có kích thước dài 08cm, rộng 02cm.
- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động màu xám, nhãn hiệu Iphone Model A1549, có gắn thẻ sim số 0935074305 của Nguyễn Thanh T và 01 điện thoại di động màu vàng, nhãn hiệu Iphone Model A1586, có gắn thẻ sim số 0393540340 của Hồ Ngọc H và số tiền 2.000đồng.
- Trả lại 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh xám, biển kiểm soát 74F1-167.76, số khung RLCUG0610FY179721, số máy G3D4E192692 cho ông Nguyễn Qu.
- Trả lại 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, biển kiểm soát 60M1-4131, số khung Y322442, số máy E0322528 cho ông Trần Thượng Nh.
Trong phần tranh luận, kiểm sát viên, các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận.
Lời nói sau cùng, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã được thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về nội dung vụ án: Ngày 16/11/2020, Nguyễn Thanh T, Hồ Ngọc H, Phạm Văn Ngh và Nguyễn Trọng H đã có hành vi mua ma túy của Võ Thanh Đ nhằm mục đích tàng trữ để sử dụng, số ma túy các bị cáo tàng trữ tại thời điểm bị bắt phạm tội quả tang có khối lượng 0,4043g là ma túy loại Methamphetamine.
[3]. Như vậy, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[4]. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Do đó, cần phải xử lý nghiêm, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa chung.
[5]. Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án, Hội đồng xét xử thấy rằng: Nguyễn Thanh T và Hồ Ngọc H là người khởi xướng và có vai trò chủ đạo trong cả 03 lần mua ma túy về sử dụng, mặc dù lần thứ ba, H không góp tiền và không trực tiếp đi mua ma túy nhưng H là người hưởng ứng tích cực trong việc mua ma túy và mong muốn có ma túy để sử dụng. Do đó, xử phạt Nguyễn Thanh T và Hồ Ngọc H mức án cao hơn Nguyễn Trọng H, Phạm Văn Ngh mới tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của các bị cáo.
[6]. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó, các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nhưng cũng cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát mới có tác dụng cải tạo các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.
[7]. Đối với Nguyễn Quốc C, khi nghe T khởi xướng mua ma túy về sử dụng nhưng C không tham gia, không đóng góp tiền. Khi T và H mua ma túy về thì C đi ăn tối cùng với V và không tham gia sử dụng ma túy nên không có căn cứ để xử lý.
[8]. Đối với Võ Thanh Đ là người bán ma túy cho các bị cáo, đã bị khởi tố bằng một vụ án khác.
[9]. Đối với Nguyễn V, khi T khởi xướng mua ma túy, V say bia, nằm ngủ nên không biết. Khi T và H đi mua ma túy thì V và C đi ăn tối, không tham gia sử dụng nên không có căn cứ để xử lý.
[10]. Đối với hành vi Hồ Ngọc H rủ V sang phòng số 5 sử dụng ma túy cùng với H và T, cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện H đang điều tra làm rõ hành vi này.
[11]. Đối với ông Lê Văn B là chủ nhà nghỉ Lifecom và ông Bùi Mạnh H là người quản lý nhà nghỉ, không biết việc các bị cáo sử dụng ma túy tại các phòng số 4, 5, 6 nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.
[12]. Về xử lý vật chứng:
- 01 túi niêm phong có ký hiệu PS3A - 102859, bên ngoài có hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị và chữ ký của những người tham gia niêm phong, bên trong có chứa 0,2783g chất bột màu hồng là ma túy Methamphetamine; 01 túi nilong trong suốt, kín miệng và bao gói niêm phong có ký hiệu MT1 sau giám định; 01 chai nhựa nhãn hiệu trà xanh không độ; trên thân chai có một lỗ thủng cách đáy chai 05cm; 01 bật lửa ga màu tím đã qua sử dụng là vật cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy.
- Đối với 01 điện thoại Iphone màu xám, có gắn thẻ sim số 0935074305 của Nguyễn Thanh T và 01 điện thoại Iphone màu vàng, có gắn thẻ sim số 0393540340 của Hồ Ngọc H và số tiền 2000đồng, các bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua ma túy và dùng để sử dụng ma túy nên cần tịch, nộp ngân sách nhà nước.
- Xe mô tô biển kiểm soát 74F1-167.76 mà bị cáo Nguyễn Thanh T mượn của Nguyễn V để đi mua ma túy là của ông Nguyễn Qu, bố của V. V không biết T mượn xe để đi mua ma túy nên cần trả lại xe mô tô cho ông Nguyễn Qu.
- Xe mô tô biển kiểm soát 60M1-4131 là của ông Trần Thượng Nh cho Nguyễn Thanh T mượn để làm phương tiện đi lại, ông Nh không biết T sử dụng xe để đi mua ma túy nên cần trả lại xe mô tô này cho ông Trần Thượng Nh.
[13]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thanh T (tên gọi khác: Tr), Hồ Ngọc H, Nguyễn Trọng H và Phạm Văn Ngh (tên gọi khác: L) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 13 (mười ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án nhung được trừ vào thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/01/2020 đến ngày 12/6/2020.
- Xử phạt bị cáo Hồ Ngọc H 13 (mười ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ vào thời gian tạm giữ từ ngày 17/01/2020 đến ngay 21/01/2020.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng H 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án nhung được trừ vào thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/01/2020 đến ngày 12/6/2020.
- Xử phạt bị cáo Phạm Văn Ngh (tên gọi khác: L) 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ vào thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/01/2020 đến ngày 12/6/2020.
Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu và tiêu hủy: 01 túi niêm phong có ký hiệu PS3A - 102859, bên ngoài có hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị và chữ ký của những người tham gia niêm phong, bên trong có chứa 0,2783g chất bột màu hồng là ma túy Methamphetamine, 01 túi nilong trong suốt, kín miệng và bao gói niên phong có ký hiệu MT1 sau giám định; 01 chai nhựa nhãn mác trà xanh không độ, có kích thước cao 20cm, đường kính đáy 06cm, đường kính miệng 03cm, trên thân chai có 01 lỗ thủng cách đáy chai 05cm; 01 bật lửa ga màu tím đã qua sử dụng có kích thước dài 08cm, rộng 02cm.
- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động màu xám, nhãn hiệu Iphone Model A1549, có gắn thẻ sim số 0935074305 của Nguyễn Thanh T và 01 điện thoại di động màu vàng, nhãn hiệu Iphone Model A1586, có gán thẻ sim số 0393540340 của Hồ Ngọc H và số tiền 2.000đồng.
- Trả lại 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh xám, biển kiểm soát 74F1-167.76, số khung RECUG0610FY179721, số máy G3D4E192692 cho ông Nguyễn Qu.
- Trả lại 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, biển kiểm soát 60M1-4131, số khung Y322442, số máy E0322528 cho ông Trần Thượng Nh.
Các vật chứng nêu trên hiện đang có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17 tháng 8 năm 2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện H và Chi cục thi hành án dân sự huyện H. Riêng số tiền 2.000đồng đang có tại tài khoản tạm gửi số 3949.0.9017075 của Công an huyện H mở tại Kho bạc nhà nước huyện H.
4. Về án phí: Áp dụng điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Các bị cáo Nguyễn Thanh T, Hồ Ngọc H, Nguyễn Trọng H và Phạm Văn Ngh (tên gọi khác: L), mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./.
Bản án 14/2020/HS-ST ngày 10/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 14/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hải Lăng - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về