Bản án 14/2020/HNGĐ-ST ngày 06/10/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 14/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/10/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 06 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 110/2020/TLST - HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2020/QĐXX- ST ngày 03 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1979.

Đại chỉ: Thôn Văn Q, xã Trí Q, huyện Thuận thành, tỉnh Bắc Ninh. (Có mặt)

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1981.

HKTT: Thôn Văn Q, xã Trí Q, huyện Thuận thành, tỉnh Bắc Ninh.

(Có mặt khi tuyên án) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời trình bày của nguyên đơn tại Toà án thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Anh Nguyễn Văn B kết hôn với chị Nguyễn Thị N ngày 23 tháng 10 năm 2000, trước khi kết hôn anh chị có tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã Trí Q, huyện Thuận Thành. Sau khi kết hôn, chị N về làm dâu và chung sống cùng gia đình anh B ngay.

Theo như anh B trình bày: Anh chị sống hòa thuận hạnh phúc được khoảng 12 năm thì giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống cũng như trong việc làm ăn. Từ khoảng năm 2013 chị N đã bỏ đi làm ăn xa ở đâu thì anh không biết nhưng thỉnh thoảng có về quê và thăm nom con nhưng vợ chồng anh sống ly thân từ năm 2013 đến nay và không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng giữa anh và chị N không còn nên không thể tiếp tục chung sống cùng nhau nữa vì vậy anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh ly hôn với chị N.

Về con chung: Anh và chị N có 02 con chung là Nguyễn Văn Y, sinh ngày 25/9/2001 và Nguyễn Thị Hải Y1, sinh ngày 11/7/2003. Từ khi chị N bỏ đi đến nay hai con vẫn ở với anh. Nếu vợ chồng ly hôn anh đề nghị Tòa án giao cháu Yến cho anh chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh không yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu Y đã trưởng thành nên anh không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và công nợ: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 25/6/2020 tại Tòa án chị Nguyễn Thị N trình bày: Chị xác nhận vê thời gian, điều kiện kết hôn như anh B trình bày là đúng. Sau khi kết hôn chị về chung sống cùng anh B được khoảng 10 năm thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn nhưng chủ yếu là mâu thuẫn về kinh tế. Nguyên nhân là do chị làm ăn không gặp may mắn từ đó chị phải đi làm ăn xa, lâu dần vợ chồng không còn tình cảm và vợ chồng sống ly thân từ năm 2011 cho đến nay. Nay anh B làm đơn ly hôn chị, chị cũng xác nhận tình cảm vợ chồng không còn nên chị đồng ý ly hôn với anh B.

Về con chung: Chị và anh B có 02 con chung như anh B trình bày là đúng. Nếu vợ chồng ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cháu Yến, chị không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu Y đã trưởng thành nên chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về tài sản chung: Chị và anh B có 01 ngôi nhà 3 tầng xây năm 2009 trên đất của bố mẹ anh B, tại thời điểm xây dựng ngôi nhà trị giá khoảng gẩn 1 tỷ đồng. Nếu vợ chồng ly hôn chị đề nghị Tòa án giải quyết chia tài sản này. Ngoài ra chị không yêu cầu gì khác.

Về công nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, sau khi xem xét yêu cầu của chị N ngày 25/6/2020, Tòa án đã giao Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí chia tài sản, Thông báo về phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải, Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải, Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa cho chị Nguyễn Thị N theo đúng quy định của pháp luật nhưng chị N không đến Tòa án làm việc. Do vậy Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà hôm nay anh B vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với chị N và đề nghị giải quyết nuôi con chung. Ngoài ra anh không có yêu cầu gì khác.

Tại phiên toà hôm nay Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà, nguyên đơn là đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật, còn bị đơn là chưa chấp hành đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ của bị đơn theo quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH xử;

Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn B được ly hôn chị Nguyễn Thị N.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Hải Y1, sinh ngày 11/7/2003 cho anh Nguyễn Văn B chăm sóc, nuôi dưỡng.

Đối với cháu Nguyễn Văn Y, sinh ngày 25/9/2001 hiện đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung và công nợ: Không đặt ra xem xét giải quyết do anh B không yêu cầu.

Về án phí: Anh B phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Sau khi nghe ý kiến đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự và ý kiến về việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử nhận định:

Anh Nguyễn Văn B và chị Nguyễn Thị N kết hôn ngày 23/10/2000, trước khi kết hôn anh chị có tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Trí Q, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Xét thấy đây là hôn nhân hợp pháp vì tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về kết hôn.

Xét yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Văn B, Hội đồng xét xử nhận thấy: Mâu thuẫn vợ chồng giữa anh B và chị N là có thật và nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm trong làm ăn kinh tế, chị N đã đi khỏi nhà và làm ăn xa đã nhiều năm nay, thỉnh thoảng mới về thăm con. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh B trình bày vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2013, còn chị N trình bày vợ chồng sống ly thân từ năm 2011 cho đến nay nhưng các đương sự đều xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đều nhất trí ly hôn. Quá trình giải quyết vụ án Toà án đã tiến hành hoà giải nhiều lần để các bên về đoàn tụ nhưng không thành do chị N đều vắng mặt. Hội đồng xét xử nhận thấy: Mâu thuẫn vợ chồng giữa anh B và chị N đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được cần xử cho anh B được ly hôn với chị N.

Về con chung: Anh B và chị N có 02 con chung là Nguyễn Văn Y, sinh ngày 25/9/2001 và Nguyễn Thị Hải Y1, sinh ngày 11/7/2003. Khi vợ chồng ly hôn cả anh B, chị N đều có nguyện vọng được nuôi cháu Yến. Hội đồng xét xử xét thấy: Từ khi chị N đi làm ăn xa không có nhà, hai con chung của anh chị vẫn ở cùng với anh B, cuộc sống của các cháu được đảm bảo và ổn định vì vậy cần giữ nguyên việc nuôi con như hiện nay nên cần giao cháu Yến cho anh B tiếp tục, chăm sóc, nuôi dưỡng. Đối với cháu Nguyễn Văn Y, hiện đã đã trưởng thành nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Các đương sự có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh B không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

Về tài sản chung và công nợ: Anh Nguyễn Văn B không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, tại bản tự khai ngày 25/6/2020 chị Nguyễn Thị N có đề nghị Tòa án giải quyết chia tài sản chung là ngôi nhà 3 tầng vợ chồng xây dựng năm 2009 trị giá khoảng gần 01 tỷ đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã giao các văn bản tố tụng cho chị N theo đúng quy định của pháp luật nhưng chị N đều vắng mặt và không đến Tòa án làm việc. Vì vậy Hội đồng xét xử sẽ không đặt ra xem xét giải quyết yêu cầu chia tài sản chung của chị N tại phiên tòa hôm này. Nếu sau này chị N có yêu cầu chia tài sản chung với anh B thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết bằng vụ việc khác.

Về công nợ: Không đặt ra xem xét giải quyết do các đương sự không yêu cầu. Về án phí: Anh Nguyễn Văn B phải chịu 300.000đ án phí Ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình;

Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH xử;

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn B được ly hôn chị Nguyễn Thị N.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Hải Y1, sinh ngày 11/7/2003 cho anh Nguyễn Văn B chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không đặt ra xem xét giải quyết.

Các đương sự có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Đối với cháu Nguyễn Văn Y, sinh ngày 25/9/2001, hiện đã trưởng thành và các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết 3. Về tài sản chung và công nợ: Không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Văn B phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.(Xác nhận anh B đã nộp 300.000đ tạm ứng án phí tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0003499 ngày 16/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thuận Thành).

Nguyên đơn, bị đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2020/HNGĐ-ST ngày 06/10/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:14/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về