TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC LONG, TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 14/2020/DS-ST NGÀY 05/08/2020 VỀ TRANH CHẤP VAY TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu, xét xử sở thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 27/2020/TLST – DS ngày 31 tháng 01 năm 2020 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2020/QĐXX-ST ngày 17 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT;
Địa chỉ: Số 266-268, đường NKKN, P8, Q3, Thành phố Hồ Chí Minh;
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D, chức vụ: Tổng giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Tứ P; chức vụ: Phó phòng giao dịch chi nhánh huyện PL, tỉnh Bạc Liêu.
Bị đơn: Bà Tô Giang T, sinh năm 1980 Địa chỉ: ấp Mỹ Tường 1, xã Hưng Phú, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu.
(Các đương sự vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 15 tháng 01 năm 2020 và trong quá trình xét xử đại diện nguyên đơn ông Huỳnh Tứ P trình bày: Vào ngày 20/10/2017 Ngân hàng TMCP SGTT chi nhánh phòng giao dịch huyện PL, tỉnh Bạc Liêu (gọi tắt là Ngân hàng) có ký kết hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số LD1729300269 với bà Tô Giang T với số tiền vay là 150.000.000đ, mục đích vay là tiêu dùng, lãi suất vay là 7,8%/năm, thời hạn vay là 60 tháng, thời hạn trả nợ cuối cùng ngày 20/10/2022. Đến ngày 30/11/2019 bà T đã vi phạm hợp đồng là không trả nợ đúng hạn nên số tiền bà T vay đã chuyển sang nợ quá hạn. Tính đến ngày xét xử ngày 05/8/2020 thì bà T còn nợ Ngân hàng số tiền vay gốc là 78.692.646 đồng, nợ lãi trong hạn là 24.881.723 đồng, lãi quá hạn 4.625.124 đồng. Tổng cộng là 108.199.493đ. Nay Ngân hàng yêu cầu bà T phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền trên.
Bị đơn bà Tô Giang T không có mặt tại Tòa án nên Tòa án không thu thập được chứng cứ về lời khai của bà T.
Về chứng cứ Tòa án đã thu thập được: Sổ hộ khẩu, giấy CMND của bà Tô Giang T, Giấy đề nghị vay vốn, phiếu xác nhận giao dịch rút tiền, bản kê tính lãi, bản kê tính nợ vay, sao kê dư nợ, bản kê gốc và lãi khởi kiện; Hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số LD1729300269 ngày 20/10/2017; Thông báo nợ quá hạn, biên bản làm việc, bản tự khai của ông Lưu Thanh P;
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Long phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm như sau:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án đã tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật. Về các đương sự trong vụ án nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt và được Tòa án chấp nhận, riêng bà T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị xét xử vắng mặt các bên đương sự.
Về nội dung: Ngân hàng TMCP SGTT khởi kiện yêu cầu bà Tô Giang T trả cho Ngân hàng tính đến ngày 05/8/2020 số tiền vay gốc và lãi là 108.199.493đ. Xét việc khởi kiện của Ngân hàng là có căn cứ nên đề nghị chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng buộc bà T trả nợ vay là 108.199.493đ; Trong đó số tiền vay gốc là 78.692.646đ, nợ lãi trong hạn là 24.881.723 đồng, lãi quá hạn 4.625.124 đồng và tiền lãi suất phát sinh theo hợp đồng tín dụng đã ký kết với Ngân hàng cho đến khi trả hết nợ; Về án phí bà T nộp theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng
[1.1]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngày 15 tháng 01 năm 2020 Ngân hàng TMCP SGTT có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Tô Giang T trả nợ, gốc, lãi theo hợp đồng tín dụng đã ký kết, mục đích vay tiêu dùng. Do đó đây là quan hệ tranh chấp vay tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu. Tòa án nhân dân huyện Phước Long thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.
[1.2]. Đại diện Ngân hàng có đơn xin xét xử vắng mặt và được Tòa án chấp nhận; Bà Tô Giang T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn xét xử vụ án vắng mặt các đương sự nêu trên.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1]. Ngân hàng TMCP SGTT khởi kiện yêu cầu bà Tô Giang T có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng số tiền vay gốc và lãi là 108.199.493đ; Trong đó số tiền vay gốc là 78.692.646đ, nợ lãi trong hạn là 24.881.723 đồng, lãi quá hạn 4.625.124 đồng. Tính đến ngày 05/8/2020, bà T còn nợ Ngân hàng số tiền 108.199.493đ; Trong đó số tiền vay gốc là 78.692.646đ, nợ lãi trong hạn là 24.881.723 đồng, lãi quá hạn 4.625.124 đồng.
Hội đồng xét xử xét thấy vào ngày 20/10/2017 Ngân hàng TMCP SGTT chi nhánh phòng giao dịch huyện PL, tỉnh Bạc Liêu có ký kết hợp đồng tín dụng kiêm khế ước số LD1729300269 với bà Tô Giang T vay số tiền 150.000.000đ, mục đích vay là tiêu dùng, lãi suất vay là 7,8%/năm, thời hạn vay là 60 tháng, thời hạn trả nợ cuối cùng ngày 20/10/2022. Quá trình thực hiện hợp đồng vay bà T đã thanh toán được cho Ngân hàng tiền vốn vay là 71.307.354đ và tiền lãi là 23.446.997đ. Đến ngày 30/11/2019 bà T đã vi phạm hợp đồng là không trả nợ đúng hạn nên số tiền bà T vay đã chuyển sang nợ quá hạn. Bà T đã được tống đạt Thông báo thụ lý số 27/2020/TLST-DS ngày 31/01/2020 của Tòa án thông báo cho bà T biết việc khởi kiện của Ngân hàng, bà T không có ý kiến cũng không có phản đối gì về việc khởi kiện trên. Từ đó có căn cứ xác định việc bà Tô Giang T vay và hiện còn nợ Ngân hàng là có thật, bà T đã vi phạm nghĩa vụ của người vay là không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ cho Ngân hàng theo quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay. Từ đó yêu cầu của Ngân hàng buộc bà T trả nợ vay là có căn cứ nên được chấp nhận.
[2.2]. Tính đến ngày 05/8/2020 thì bà T còn nợ Ngân hàng số tiền là 108.199.493đ; Trong đó vốn 78.692.646đ, nợ lãi trong hạn 24.881.723 đ, lãi quá hạn 4.625.124đ. Từ đó buộc bà T phải có nghĩa vụ trả cho ngân hàng số tiền 108.199.493đ, ngoài ra thì trong giai đoạn thi hành án bà T còn phải chịu lãi suất quá hạn theo hợp đồng đã ký kết với Ngân hàng.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Tô Giang T có nghĩa vụ phải nộp toàn bộ án phí đối với yêu cầu của Ngân hàng được Tòa án chấp nhận cụ thể: 108.199.493đ x 5% = 5.409.974đ. Ngân hàng được nhận lại án phí đã dự nộp.
Từ những nhận định trên xét đề nghị của đại viện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Long về nội dung giải quyết vụ án là có căn cứ nên được chấp nhận.
Vì caùc leõ treân;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng các Điều 26, 35, 227, 228, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng Dân sự; các Điều 463, Điều 466 và Điều 468 Bộ luật dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT đối với bà Tô Giang T về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Buộc bà Tô Giang T phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT số tiền 108.199.493đ (một trăm lẽ tám triệu một trăm chín mươi chín nghìn bốn trăm chín mươi ba đồng); Trong đó tiền nợ gốc 78.692.646đ (bảy mươi tám triệu sáu trăm chín mươi hai nghìn sáu trăm bốn mươi sáu đồng), nợ lãi trong hạn còn phải trả là 24.881.723đ (hai mươi bốn triệu tám trăm tám mươi mốt nghìn bảy trăm hai mươi ba đồng), lãi quá hạn là 4.625.124đ (bốn triệu sáu trăm hai mươi lăm nghìn một trăm hai mươi bốn đồng).
2. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, bà T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số LD1729300269, ngày 20/10/2017 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
3. Về án phí: Bà Tô Giang T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 5.409.974đ (năm triệu bốn trăm lẽ chín nghìn chín trăm bảy mươi bốn đồng); Hoàn lại cho Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.693.000đ (hai triệu sáu trăm chín mươi ba nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0004625 ngày 31/01/2020 của Cơ quan thi hành án dân sự huyện Phước Long.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chấ thi hành án theo các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
5. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 14/2020/DS-ST ngày 05/08/2020 về tranh chấp vay tài sản
Số hiệu: | 14/2020/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về