Bản án 14/2019/HS-ST ngày 11/04/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HUỆ, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 14/2019/HS-ST NGÀY 11/04/2019 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 11 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện Đức Huệ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc P - Sinh năm: 1994; tại Châu Thành - Long An; nơi cư trú: Ấp C, xã A, huyện C, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Phước T, sinh năm: 1966 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1963; bị cáo chưa có vợ và con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/12/2018 đến nay. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Trần Thị Kim H - Sinh năm: 1977 - Địa chỉ: 36/1H ấp C2, xã X, huyện H, thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do trước đó đã có chạy tiêu thụ xe do người khác phạm tội mà có nên khoảng 10 giờ ngày 28/12/2018, Nguyễn Ngọc P, đang ở tại nhà trọ Ngọc Trâm thuộc khu phố 4, thị trấn Đ nhận được điện thoại từ người đàn ông tên Đ có số máy 0969 608 444. Người này gọi điện thoại kêu P chạy xe đá thuê cho mình đi từ thành phố Hồ Chí Minh về cầu Bà Vòm thuộc xã Mỹ Quý Tây với giá 500.000 đồng/chuyến. Sau khi thỏa thuận xong thì nói với P đến chợ Đầu mối để nhận xe. P đồng ý rồi điện thoại cho bạn tên Quậy (Lê Hoàng V), nhờ đến nhà nghỉ Ngọc Trâm để chở P đến bến xe Đức Huệ. Tại đây, P đón xe buýt đi Hậu Nghĩa rồi đến chợ Đầu mối nghỉ lại qua đêm tại quán cà phê võng. Đến khoảng 10 giờ 15 phút ngày 29/12/2018, Đ điện thoại lại cho P kêu đến chân cầu vượt Quang Trung, quận 12 để nhận xe. P đón xe buýt đến điểm hẹn, gặp hai thanh niên lạ mặt đang đợi sẵn cùng với 02 chiếc xe Exciter màu xanh đen và Wave alpha màu xanh biển số 50Y1- 141.31. Một người thanh niên hỏi P “đến nhận xe phải không?”, P trả lời “phải”, sau đó giao cho P chiếc xe Wave alpha. Nhận xe xong, P điều khiển xe chạy về hướng An Sương, qua quốc lộ 22, hướng theo ngã ba Giồng về đến nhà nghỉ Ngọc Trâm thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ và lập biên bản quả tang tạm giữ người cùng tang vật là 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu sơn: xanh - đen - bạc, biển số 50Y1- 141.31, số khung: 3900HY258523, số máy: JA39E- 0258573 và 01 điện thoại đi động Nokia 1280 màu đen.

Quá trình làm việc với Cơ quan điều tra, P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Ngoài ra, P còn khai nhận trước đó vào ngày 27/12/2018, P đã vận chuyển thành công một xe Wave alpha màu đỏ từ cầu Tân Thới Hiệp, quận 12 về cầu Bà Vòm.

Tang vật tạm giữ:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave alpha, màu sơn: xanh, biển số 50Y1-141.31, số khung: RLHJA 3900HY258523, số máy: JA39E0258573, dung tích 109 cm3.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, loại 1280 màu đen, IMEI 351870026359878, số sim 0328 531 858 là tài sản của bị cáo P sử dụng để liên lạc thực hiện tội phạm.

Tại kết luận định giá tài sản số 106 ngày 29/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đức Huệ xác định: xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave alpha, màu sơn: xanh, biển số 50Y1-141.31, số khung: RLHJA 3900HY258523, số máy: JA39E0258573, dung tích 109 cm3, tình trạng đã qua sử dụng, có giá trị 14.000.000 đồng (mười bốn triệu đồng).

Xử lý tang vật của cơ quan cảnh sát điều tra: Quá trình điều tra xác định: xe mô tô không biển số là tài sản hợp pháp của bà Trần Thị Kim H, sinh năm: 1977, hộ khẩu thường trú: 36/1H ấp C2, xã X, huyện H, thành phố Hồ Chí Minh. Cơ quan điều tra Công an huyện Đ đã tiến hành trao trả tài sản xe mô tô nói trên cho bà Hải theo Quyết định xử lý vật chứng số 10 ngày 03/01/2019. Về trách nhiệm dân sự: bà Trần Thị Kim H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về phần trách nhiệm dân sự.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, loại 1280 màu đen, IMEI 351870026359878, số sim 0328 531 858 là tài sản của bị cáo P sử dụng để liên lạc thực hiện tội phạm hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện đang quản lý.

Đối với người đàn ông tên Đ có hành vi thuê P vận chuyển xe không rõ nguồn gốc, do quá trình làm việc không đủ cơ sở để xác định nhân thân lai lịch của đối tượng nên Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ, xử lý sau.

Cáo trạng số: 17/CT-VKS-ĐH ngày 20 tháng 02 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc P về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ sau khi phân tích tính chất của hành vi và hậu quả xảy ra, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc P phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Căn cứ: khoản 1 Điều 323, điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Điều 32, 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc P từ 06 đến 09 tháng tù.

Các biện pháp Tư pháp: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Phần Cơ quan điều tra đã xử lý xong nên không đề cập xem xét.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, loại 1280 màu đen, IMEI 351870026359878, số sim 0328 531 858 là tài sản của bị cáo P sử dụng để liên lạc thực hiện tội phạm, đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan: Bà Trần Thị Kim H vắng mặt tại phiên tòa trong lời khai trình bày đã nhận lại tài sản không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Vào ngày 29/12/2018, (khoảng 10 giờ 15 phút) Nguyễn Ngọc P đã nhận lời vận chuyển và tiêu thụ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave alpha, màu sơn: xanh, biển số 50Y1-141.31, số khung: RLHJA 3900HY258523, số máy: JA39E0258573 do người khác phạm tội mà có cho một người không rõ địa chỉ (chỉ biết tên Đ) từ khu vực cầu vượt Quang Trung, quận 12 (thành phố Hồ Chí Minh) về khu vực cầu Bà Vòm thuộc xã Q, huyện Đ để tiêu thụ với giá tiền công vận chuyển là 500.000 đồng (chưa nhận tiền công). Khi bị cáo P vận chuyển xe mô tô nói trên đến nhà trọ Ngọc Trâm khu phố 4, thị trấn Đông Thành thì bị lực lượng chức năng bắt giữ người cùng tang vật. Qua định giá tài sản xe mô tô nói trên có giá trị là 14.000.000 đồng (Mười bốn triệu đồng).

 [2] Các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can của cơ quan cảnh sát điều tra, quyết định phê chuẩn khởi tố bị can và cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ truy tố bị cáo điều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Hành vi tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên điều thực hiện đúng và hợp pháp.

 [3] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Ngọc P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản bắt người phạm tội quả tang do công an huyện Đức Huệ lập lúc 15 giờ 45 phút ngày 29/12/2018, kết luận định giá tài sản số 106/KL- TCKH, ngày 29/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đức Huệ và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Trên cơ sở đó đã có đủ bằng chứng để kết luận rằng bị cáo Nguyễn Ngọc P phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự 2015. Như vậy, cáo trạng số: 17/CT-VKS-ĐH ngày 20 tháng 02 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc P với tội danh và điều luật nêu trên là có cơ sở đúng theo quy định của pháp luật.

 [4] Hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc P là nguy hiểm cho xã hội, vì hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến trật tự công cộng và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà còn gây trở ngại cho công tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự, tạo điều kiện khuyến khích cho những người khác đi vào con đường phạm tội. Bị cáo biết việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi trên của bị cáo phải được xử lý nghiêm. Xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa.

 [4.1] Đối với lần vận chuyển xe vào ngày 27/12/2018, bị cáo Nguyễn Ngọc P khai nhận, ngoài lời khai của bị cáo P, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh, không đủ căn cứ buộc tội nên không tính bị cáo phạm tội nhiều lần và buộc bị cáo nộp lại số tiền thu lợi bất chính.

 [5] Xét thấy bị cáo Nguyễn Ngọc P trong quá trình xét xử thật thà khai báo, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bản thân bị cáo là bộ đội xuất ngũ là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, do đó khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

 [6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Ngọc P là có cơ sở theo quy định pháp luật.

 [7] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan bà Trần Thị Kim H vắng mặt tại phiên toà trong lời khai không yêu cầu nên không đề cập xem xét. Nếu sau này có phát sinh yêu cầu bồi thường sẽ tách ra giải quyết bằng một vụ án khác.

 [8] Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Phần Cơ quan điều tra đã xử lý xong không có yêu cầu xem xét lại nên không đề cập xem xét.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, loại 1280 màu đen, IMEI 351870026359878, số sim 0328 531 858 là tài sản của bị cáo P sử dụng để liên lạc thực hiện tội phạm nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

 [9] Đối với những người giới thiệu, chủ thuê, người giao nhận xe cho bị cáo, không xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ, không làm v iệc được. Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục thẩm tra, xác minh đề xuất xử lý sau, nên không đề cập xử lý trong vụ án này là phù hợp. Nhằm không bỏ lọt tội phạm, kiến nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh để xử lý sau theo quy định của pháp luật.

 [10] Bị cáo Nguyễn Ngọc P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 32, Điều 38 Bộ luật hình sự; Các Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 299, Điều 326 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc P phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

3. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc P 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ tạm giam (ngày 29/12/2018).

4. Về các biện pháp tư pháp: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, loại 1280 màu đen, IMEI 351870026359878, số sim 0328 531 858 đã qua sử dụng.

Tang vật do chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Huệ đang quản lý .

5. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc P phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung vào công quỹ Nhà nước.

6. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (ngày 11/4/2019). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

491
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HS-ST ngày 11/04/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:14/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về