Bản án 14/2019/HS-ST ngày 03/05/2019 về tội buôn bán hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 14/2019/HS-ST NGÀY 03/05/2019 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 03 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Văn H, sinh ngày 24/8/2000 tại Thành phố Hải Phòng. Nơi cư trú: xã B, huyện B, Thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Học sinh; trình độ văn hóa (học vấn): đang học lớp 12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn M và bà Vũ Thị Q; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị Tạm giữ từ ngày 02/01/2019 đến ngày 05/01/2019 (03 ngày) được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Khắc L;

2. Anh Phạm Văn M.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 02/01/2019, tại khu vực phía trước Nhà văn hóa phố C, xã Gi, huyện K cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hải Dương bắt quả tang, thu giữ của Phạm Văn H 01 bao tải dứa, bên trong đựng các khối hình trụ có vỏ giấy mầu đỏ, 30 vật hình bóng đèn điện tròn. H khai các vật trong bao dứa là pháo nổ (gồm 06 bánh pháo nổ và 30 quả pháo trứng) H đang giao dịch bán cho một nam thanh niên tên H1 (H mới quen H1 được khoảng nửa tháng và không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của H1), với số tiền 8.550.000đ nhưng hai bên chưa kịp giao pháo, nhận tiền thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang, H1 bỏ chạy trốn thoát. Tiến hành khám xét khẩn cấp, Cơ quan điều tra thu giữ tại nơi ở của H 01 giàn pháo 36 quả. H khai, giàn pháo H cất giấu mục đích để bán cho người khác.

Quá trình điều tra xác định: Vào khoảng đầu tháng 12 năm 2018 H quen 01 nam thanh niên tên H2 ở Thành phố Hải Dương (H cũng không biết họ tên, địa chỉ của H2) nói là có pháo bán, nếu cần cứ gọi cho H2. Chiều ngày 01/01/2019 H1 gọi điện cho H hỏi mua 06 bánh  pháo  loại  3m  (dài  3m/bánh),  giá  1.300.000đ/bánh  và  30  quả  pháo  trứng,  giá 25.000đ/quả, H đồng ý.

Sáng ngày 02/01/2019, H gọi điện cho H2 đặt mua 06 bánh pháo loại 3m; 30 quả pháo trứng và 01 giàn pháo 36 quả. Đến 13 giờ cùng ngày, H2 mang số pháo trên giao cho H tại khu vực phía trước Nhà văn hóa phố Quý Cao, xã Nguyên Giáp. Do chưa có tiền nên H hẹn sẽ trả tiền pháo cho H2 vào khoảng 20 giờ cùng ngày, H2 nhất trí và H mang pháo về cất giấu. Khoảng 15 giờ 50 phút ngày 02/01/2019, H chở số pháo mà H1 đã đặt mua (06 bánh loại 3m và 30 quả pháo trứng) ra điểm hẹn tại phía trước Nhà văn hóa phố C để bán cho H1, khi hai bên đang giao dịch mua bán thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Hải Dương phát hiện bắt giữ.

Tại Kết luận giám định số 35/C09-P2 ngày 03/01/2019, Viện khoa học hình sự, Bộ Công an kết luận:

- Các vật hình trụ vỏ giấy mầu đỏ liên kết với nhau thành tràng (06 tràng) đều là pháo nổ. Khối lượng là 7,2kg (bảy phẩy hai kilôgam);

- 01 khối hộp, bên trong khối hộp gồm 36 vật hình trụ được liên kết với nhau là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ). Khối lượng là 1,6kg (một phẩy sáu kilôgam);

- 30 vật hình bóng đèn điện tròn có đặc điểm: phần hình cầu có đường kính 04cm, phần hình trụ có đường kính 03cm, cao 03cm, vỏ ngoài bọc giấy màu, một đầu mỗi vật có gắn dây ngòi màu xanh đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ). Khối lượng 1,2kg (một phẩy hai kilôgam).

Tổng khối lượng số pháo trên là 10kg (mười kilôgam).

Tại bản Cáo trạng số 16/CT-VKSTK ngày 29 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương truy tố Phạm Văn H về tội "Buôn bán hàng cấm" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa: VKSND huyện Tứ Kỳ giữ nguyên quyết định truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của BLHS. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Buôn bán hàng cấm”; xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; áp dụng các điểm a, c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo và tịch thu tiêu huỷ 02 sim điện thoại của bị cáo.

Bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, công nhận quyết định truy tố và luận tội của VKSND huyện Tứ Kỳ là đúng. Bị cáo khai, do H2 gọi điện gạ bán pháo cho bị cáo, sau đó H1 lại hỏi mua, bị cáo thấy có lợi nên đã thực hiện hành vi buôn bán pháo nổ vào ngày 02/01/2019. Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình và đề nghị HĐXX xem xét xử phạt bị cáo ở mức hình phạt thấp nhất, cho bị cáo hưởng án treo để bị cáo có điều kiện tiếp tục được học tập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Ngày 02/01/2019, bị cáo Phạm Văn H đang thực hiện hành vi giao dịch bán trái phép 8,4kg pháo nổ tại phía trước Nhà văn hóa phố C, xã Gi, huyện K đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hải Dương bắt quả vào hồi 16 giờ ngày 02/01/2019 và hành vi cất giấu 1,6kg pháo nổ tại nhà ở xã B, huyện B, thành phố Hải Phòng nhằm bán trái phép cho người khác.

[2] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi buôn bán pháo nổ là vi phạm pháp luật, nhưng do muốn có tiền tiêu sài bị cáo vẫn cố ý thực hiện; số pháo nổ bị cáo buôn bán trái phép có khối lượng là 10kg nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Buôn bán hàng cấm" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 BLHS. Như vậy, quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Hành vi của bị cáo có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn, xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số mặt hàng cấm; gây mất trật tự trị an nên cần thiết phải áp dụng loại hình phạt nghiêm khắc là hình phạt tù đối với bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào; sau khi phạm tội bị bắt giữ, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hiện bị cáo đang là học sinh, năm học 2017 - 2018 bị cáo đạt danh hiệu học sinh tiên tiến và được Hiệu trưởng trường  Trung học phổ thông (THPT) H, Thành phố Hải Phòng tặng Giấy khen nên HĐXX áp dụng cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS.

[5] Bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, việc phạm tội mang tính cơ hội, nhất thời, thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo mới 18 năm 04 tháng 8 ngày tuổi, hiện bị cáo vẫn đang theo học THPT, HĐXX xét thấy không cần thiết bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định tại Điều 65 BLHS, cho bị cáo có cơ hội tự cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người tốt và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bản thân bị cáo là học sinh, không có tài sản gì, sống phụ thuộc gia đình nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 190 BLHS.

[7] Về xử lý vật chứng: 8,6kg pháo nổ được cơ quan giám định hoàn lại cùng vỏ bao dứa Cơ quan điều tra đã xử lý tiêu hủy; 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số 15K1 - 234.88 bị cáo sử dụng làm phương tiện đi buôn bán pháo nổ là tài sản của ông Phạm Văn M (bố đẻ của bị cáo), bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội ông không biết, cơ quan điều tra đã xử lý trả lại cho ông M; 01 điện thoại di động Nokia 1280 cùng sim bị cáo dùng liên lạc mua pháo của đối tượng tên H2, bị cáo đã làm rơi, quá trình điều tra không thu giữ được nên không đặt ra xử lý; 01 điện thoại Oppo bị cáo dùng liên lạc buôn bán pháo với đối tượng tên H1 là tài sản của bị cáo nay tịch thu nộp ngân sách nhà nước; 02 sim điện thoại của bị cáo được lắp trên điện thoại Oppo hiện không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Trong vụ án này, đối tượng tên H2 bán pháo cho bị cáo và đối tượng tên H1 là người mua pháo, quá trình điều tra không xác định được họ tên, địa chỉ nên cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[10] Về các hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Buôn bán hàng cấm". Xử phạt bị cáo Phạm Văn H 14 (mười bốn) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là28 (hai mươi tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 03/5/2019.

Giao bị cáo Phạm Văn H cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, Thành phố Hải Phòng nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng các điểm a, c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS, tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo; tịch thu tiêu hủy 02 sim điện thoại của bị cáo (Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ ngày 01/4/2019).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về… án phí và lệ phí Tòa án. Xử buộc bị cáo Phạm Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 03 tháng 5 năm 2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

369
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HS-ST ngày 03/05/2019 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:14/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:03/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về