Bản án 14/2018/HS-ST ngày 27/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 14/2018/HS-ST NGÀY 27/02/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyên Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2018/TLST- HS ngày 17/01/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2018/QĐXXST- HS ngày 13/02/2018, đôi vơi bị cáo:

Dương Văn D, sinh năm 10/11/1996 tại Tây Ninh; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Tổ 11, Ấp T, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: thợ mộc; trình độ văn hóa: 3/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Dương Văn L, sinh năm 1963 và bà Hà Thị H, sinh năm 1965; Vợ, con : Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Có 03 tiền sự:

+ Ngày 04/4/2017, Trưởng Công an xã Tân Hà, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, áp dụng Khoản 1, Điều 21, Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, chưa chấp hành nộp phạt.

+ Ngày 13/8/2017, bị Trưởng Công an xã Tân Hà, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, áp dụng Khoản 1, Điều 21, Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, chưa chấp hành nộp phạt.

+ Ngày 19/9/2017, bị Trưởng Công an xã Tân Hà, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, áp dụng Nghị định 111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của Chính phủ, xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức giáo dục tại xã là 03 tháng về hành vi
“Sử dụng trái phép chất ma túy”, chưa chấp hành xong.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/10/2018 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Nhân chứng: Nguyễn Đức A, sinh năm 1994; trú tại: Ấp T, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 23/10/2017, Dương Văn D rủ Nguyễn Đức A, sinh năm 1994, ngụ tại ấp T, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh đi sang Campuchia chơi thì A đồng ý. Sau đó D chở A đi sang Campuchia đến xã Ruông, huyện Mê Mốt, tỉnh Tboung Khmum. D để A đứng bên ngoài, D đi gặp người tên Mắt Chột (không rõ nhân thân và địa chỉ) mua 02 bịch ma tuý với số tiền 2.300.000 đồng cất giấu trong người để đem về Việt Nam sử dụng. Khi đi mua ma túy D không nói cho A biết, mua được ma túy D điều khiển xe chở A về Việt Nam đến địa phận ấp K, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh, thì lực lượng phòng chống ma túy Đồn biên phòng 821 (Đồn Tân Hà) cùng với công an xã Tân Hà phát hiện bắt quả tang cùng tang vật lúc 22 giờ 50 phút ngày 23/10/2017.

Tại Cơ quan điều tra Dương Văn Diện khai rõ hành vi phạm tội của mình.

* Kết quả giám định: Tại bản kết luận giám định số 202/MT-2017 ngày 28/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: tinh thể rắn màu trắng bên trong 02 bịch nylon được hàn kín hai đầu gửi đến giám định là chất ma túy; là loại Methamphetamine; Trọng lượng 2,5048 gam, sau giám định còn lại 2,3487 gam.

Bản Cáo trạng sô 11/QĐ/KSĐT, ngày 17 tháng 01 năm 2018 Viên kiêm sát nhân dân huyện Tân Châu , tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo  Dương Văn D vê tôi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, đai diên Viê n kiêm sat nhân dân huyên Tân Châu giư nguyên quan điêm truy tô va đê nghi Hôi đông xet xư tuyên bô bi cao  Dương Văn D phạm tôi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng điểm c, khoản 1 Điêu 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt bị cáo Dương Văn D từ 02 đến 03 năm tù.

* Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 47 Bộ Luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

Tich thu tiêu hủy 01 (một) bì thư đã được niêm phong, trong đó có chứa 02 bịch nilon chứa tinh thể màu trắng, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn Nguyện và Nguyễn Thị Tuyết Mai (ký hiệu M). Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Lenovo, số imel: 088914 của bị cáo dùng vào việc phạm tội. (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/01/2018).

Trả lại cho bị cáo D  số tiền 770.000 đồng không liên quan đến vụ án. Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 21 giờ ngày 23/10/2017, Dương Văn D  rủ Nguyễn Đức A  sang Campuchia chơi thì A đồng ý. D chở A đến xã Ruông, huyện Mê Mốt, tỉnh Tboung Khmum, Campuchia. A đứng bên ngoài, D đi gặp người tên Mắt Chột (không rõ nhân thân và địa chỉ) mua 02 bịch ma tuý với số tiền 2.300.000 đồng cất giấu trong người để đem về Việt Nam sử dụng. A không biết việc D sang Campuchia mua ma túy. Khi về Việt Nam đến địa phận ấp K, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh, thì bị lực lượng phòng chống ma túy Đồn biên phòng 821(Đồn Tân Hà) cùng với công an xã Tân Hà phát hiện bắt quả tang cùng tang vật là 02 bịch nylon chứa ma túy vào lúc 22 giờ 50 phút ngày 23/10/2017. Tại bản kết luận giám định số 202/MT-2017 ngày 28/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: tinh thể rắn màu trắng bên trong 02 bịch nylon được hàn kín hai đầu của bị cáo gửi đến giám định là chất ma túy; là loại Methamphetamine; Trọng lượng 2,5048 gam, sau giám định còn lại 2,3487 gam. Do đó đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Dương Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình Sự 2015 như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo D là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất gây nghiện, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị tại địa phương nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do chính hành vi của bị cáo gây ra.

Khi quyết định hình phạt cần xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Không có.

Tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu có 03 tiền sự, đã bị xử phạt về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy 02 lần bị cáo chưa thực hiện nghĩa vụ nộp phạt. Bị cáo đang bị xử phạt hành chính giáo dục tại xã phường về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy chưa chấp hành xong lại tiếp tục phạm tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bằng hình phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Tại Điều 35 và khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 quy định caàn phaûi aùp duïng hình phaït boå sung ñeå xöû phaït bò caùo. Tuy nhiên, tại biên bản lấy lời khai đối với bị cáo cũng như qua biên bản xác minh thì bị cáo không có tài sản nên cần miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) bì thư đã được niêm phong, trong đó có chứa 02 bịch nilon chứa tinh thể màu trắng, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn Nguyện và Nguyễn Thị Tuyết Mai (ký hiệu M) là vật chứng Nhà nước cấm nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Lenovo, số imel: 088914 của bị cáo đấy là công cụ, phương tiện dùng để thực hiện tội phạm nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước

- Số tiền thu giữ của bị cáo D 770.000 đồng, đây là tiền của bị cáo không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5] Vê an phi : Bị cáo Dương Văn D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy đinh pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c, khoản 1 Điêu 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015:

Xư phat bi cao Dương Văn D  02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 23/10/2017.

Miễn hình phạt bổ sung đối với bò cáo.

2. Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điêu 47 Bộ luật Hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư đã được niêm phong, trong đó có 02 bịch nilon chứa tinh thể màu trắng, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn Nguyện và Nguyễn Thị Tuyết Mai (ký hiệu M).

Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Lenovo, số imel: 088914 của bị cáo dùng vào việc phạm tội.

Trả lại cho bị cáo D số tiền 770.000 đồng không liên quan đến vụ án nhưng tạm giữ để thi hành án.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/01/2018.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Dương Văn D phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2018/HS-ST ngày 27/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về