Bản án 14/2018/HS-ST ngày 26/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN THÀNH, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 14/2018/HS-ST NGÀY 26/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 167/2017/HSST ngày 27-12-2017 đối với bị cáo: 

Nguyễn Tấn P (tên gọi khác T), sinh năm 1991 tại Bà Rịa-Vũng Tàu; trú tại: Ấp P, xã T, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; cha: Nguyễn Văn D, mẹ: Ung Thị G, tiền án: 01- ngày 27-9-2011 bị TAND huyện Tân Thành xử phạt 02 năm tù vì tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số 117/2011/HSST, tiền sự: 01- ngày 11-9-2017 bị công an xã T xử phạt 1.500.000 đồng vì hành vi trộm cắp tài sản; bị bắt tạm giữ ngày 04-10-2017, bị tạm giam ngày 10-10-2017 (có mặt).

- Bị hại:

1/Công ty TNHH MTV U

Địa chỉ: Ấp Ông Trịnh, xã Tân Phước, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu

Người đại diện theo pháp luật: Ông Võ Thanh S(vắng mặt)

2/ Ông Lê Văn T, sinh năm 1972

Địa chỉ: Ấp P, xã T, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Nguyễn Tấn P bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Nguyễn Tấn P và Huỳnh Trường V có mối quan hệ quen bạn bè với nhau, là những đối tượng nghiện ma túy và không có nghề nghiệp ổn định. Khoảng 8 giờ ngày 04-10-2017, P đến nhà V chơi rồi cả hai bàn bạc với nhau đi trộm cắp tài sản lấy tiền mua ma túy sử dụng. Sau khi thống nhất xong, V sử dụng xe máy của mình mang biển số 72T2-4710 chở P đi dọc tuyến đường 965 thuộc cảng C để tìm tài sản sơ hở thì trộm cắp. Khi đến công trường đang thi công đường dây 110kv thuộc ấp Ô, xã T, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu thì cả hai phát hiện có một số thanh sắt thuộc sở hữu của công ty TNHH MTV U đang để bên đường mà không có người trông coi nên cả hai nảy sinh ý định trộm cắp. Vũ điều khiển xe chở P chạy vào bên trong công trường rồi cả hai xuống xe, đi bộ đến đống sắt lấy tổng cộng 13 thanh sắt có trọng lượng 32kg, sau đó bỏ lên xe máy chở đến tiệm thu mua phế liệu của chị Lý Thị Bh tại ấp Ô xã T, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu để bán. Nhưng lúc này chỉ có con gái chị B là Nguyễn Thu H ở nhà nên cả hai chưa bán được. P và V nói với cháu H cho gửi số sắt trên rồi sẽ bán sau. Sau đó cả hai tiếp tục quay lại công trình lấy trộm thêm 9 thanh sắt phi 25, tổng trọng lượng 22,6kg định bỏ lên xe máy mang đi tiêu thụ thì bị bảo vệ công ty và lực lượng biên phòng phát hiện bắt được P, riêng V trốn thoát.

Tang vật thu giữ gồm: 09 cây sắt phi 25 co trọng lượng là 22,6kg và 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wade, màu đỏ-bạc-đen, biển số 72T2-4710.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 165/KL-HDDG-TTHS ngày 09/10/2017 của Hội đồng định giá huyện Tân Thành xác định: 54,6kg sắt phi 24 có giá trị là 873.600 đồng.

Trong quá trình điều tra, Nguyễn Tấn P còn khai nhận trước đó đã thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản khác, cụ thể:

Vào khoảng cuối tháng 9 năm 2017 bị cáo P đã lén lút đột nhập vào tiệm gara sửa chữa ô tô của ông Lê Văn T, sinh năm 1972, ở ấp P, xã T, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, lấy trộm 02 mâm xe ô tô lại 8 lỗ sau đó bán cho một người mua ve chai dạo được số tiền 240.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá số 185/KL-HDDG-TTHS ngày 09-11-2017 của Hội đồng định giá huyện Tân Thành xác định: 02 mâm xe nói trên trị giá 1.560.000 đồng.

Vật chứng vụ án: Ngày 10/10/2017, cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tân Thành đã trả lại cho ông Võ Thanh S 54,6kg sắt nói trên, tuy nhiên ông S vẫn chưa nhận lại tài sản. Hiện số sắt trên được chuyển đến chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Thành bảo quản, chờ xử lý.

Đối với mô tô hiệu Honda Wade, màu đỏ-đen-bạc qua xác minh thuộc sở hữu của ông Phan Cảnh K, sinh năm 1972,HKTT tại xã N, huyện T, tỉnh Bình Thuận. Tại cơ quan công an ông K khai đã bán chiếc xe nói trên cho một người lạ vào năm 2015. Ngày 27/11/2017 cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tân Thành đã ra quyết định truy tìm chủ sở hữu chiếc xe nói trên nhưng đến nay chưa có kết quả nên tách chiếc xe này ra để truy tìm, khi nào có kết quả sẽ giải quyết theo quy định.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Lê Văn T không yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị 2 chiếc mâm ô tô.

Tại bản cáo trạng số 03/KSĐT-KT ngày 12-12-2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành đã truy tố Nguyễn Tấn P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên Tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm g khoản 1 Điều 48, điểm o, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P mức án từ 09 tháng đến 18 tháng tù.

Bị cáo không có ý kiến gì đối với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Vụ án không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hay phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung; những tài liệu, chứng cứ và các quyết định tố tụng do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thu thập trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp và được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tấn Pđã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Khoảng 9 giờ ngày 04-10-2017 tại công trường đang thi công đường dây 110kv thuộc ấp Ô, xã T, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu bị cáo P có 01 tiền sự về tội trộm cắp tài sản đã thực hiện hành vi lén lút trộm cắp 54,6kg sắt phi 25, có tổng trị giá 873.600 đồng của công ty TNHH MTV U thì bị bắt quả tang. Ngoài ra, trước đó vào khoảng cuối tháng 9 năm 2017 bị cáo đã lén lút đột nhập tiệm gara của ông Lê Tiến P ở ấp P, xã T, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu trộm cắp 02 chiếc mâm ô tô trị giá 1.560.000 đồng. Lời khai của bị cáo là hoàn toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Tấn P đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cùng với đồng phạm không những đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Vì vậy cần thiết phải có một mức hình phạt tù thật nghiêm khắc, tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội của các bị cáo để nhằm răn đe, giáo dục đồng thời có tính chất phòng ngừa tội phạm chung.

 [3] Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự thú về hành vi phạm tội trước đó nên được áp dụng các điểm o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 để giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

 [4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội trong trường hợp chưa được xóa án tính nên lần phạm tội này được xem là tái phạm theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999.

 [5] Về xử lý vật chứng: Số lượng 54,6kg sắt phi 25, loại sắt gân thuộc sở hữu của công ty TNHH MTV U nên trả lại cho công ty là phụ hợp. Đối với mô tô hiệu Honda Wade, màu đỏ-đen-bạc hiện chưa xác định được chủ sở hữu, khi nào xác định sẽ giải quyết theo quy định của pháp luật.

 [6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Lê Văn T không yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị thiệt hại của 2 chiếc mâm ô tô và công ty TNHH MTV U vắng mặt không có lý do nên không xem xét. Giành quyền khởi kiện cho công ty TNHH MTV Y trong vụ án khác khi cần thiết.

 [7] Đối với số tiền 240.000 đồng bị cáo thu được từ việc bán 2 chiếc mâm ô tô là thu nhập bất chính nên tịch thu sung công quỹ.

 [7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tấn P phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng khoản khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự; điểm g khoản 1 Điều 48, điểm o, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P 01 (một) năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 04-10-2017.

2. Áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự; Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự

Trả lại cho công ty TNHH MTV U 54,6kg sắt phi 25, loại sắt gân hiện đang được bảo quản tại chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Thành theo biên bản giao nhận vật chứng số 37 ngày 26-01-2018.

Buộc bị cáo Nguyễn Tấn P nộp vào công quỹ nhà nước số tiền 240.000 đồng có được từ việc bán 02 chiếc mâm ô tô.

3. Về trách nhiệm dân sự: Công ty TNHH MTV U có quyền khởi kiện yêu cầu về trách nhiệm dân sự trong vụ án khác khi cần thiết.

4. Áp dụng các Điều 23, 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Bị cáo Nguyễn Tấn P phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

 “Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2018/HS-ST ngày 26/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:14/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về